Đảng của Sarkozy sẽ 'đại thắng'
Nicolas Sarkozy đang chuẩn bị có đa số áp đảo trong quốc hội mà ông cần
Những dự báo sau vòng bỏ phiếu đầu tiên của cuộc bầu cử nghị viện Pháp cho thấy đảng của Tổng thống Nicolas Sarkozy sẽ thắng lớn.
Các hãng thăm dò ý kiến dự đoán đảng UMP trung hữu của ông Sarkozy sẽ tăng đa số tại quốc hội.
Các nhà phân tích nói rằng một đa số lớn sẽ cho phép tân tổng thống thực hiện những cải cách kinh tế sâu rộng.
Kết quả sẽ chưa được xác nhận cho tới vòng bỏ phiếu thứ hai trong tuần tới.
Số cử tri đi bỏ phiếu chỉ đạt 61%, một con số thấp chưa từng thấy và trái ngược với con số 84% cử tri đi bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống cách đây một tháng.
''Nhiều người không quan tâm lắm tới bầu cử quốc hội vì họ nghĩ rằng đằng nào đảng của ông Sarkozy cũng có đa số áp đảo,'' ông Mikhael Perez, cử tri 48 tuổi nói với hãng tin Reuters.
Thất bại của đảng Xã hội
Với vòng bỏ phiếu thứ hai sẽ diễn ra trong tuần tới, hiện đa số của đảng UMP vẫn chưa chắc chắn.
Nhiều cử tri sẽ trở lại các điểm bầu cử vào ngày 17 tháng sáu
Nhiều cử tri sẽ trở lại các hòm phiếu vào ngày 17 tháng sáu cho vòng hai.
Các hãng thăm dò nói rằng UMP có thể giành được từ 383 tới 501 trong tổng số 577 ghế ở quốc hội so với 359 ghế hiện nay.
Đảng Xã hội mà ứng viên tổng thống của họ Segolene Royal đã thua ông Sarkozy có vẻ như sẽ lại có một thất vọng lớn khác nữa.
Người ta dự đoán đảng sẽ mất một số hoặc thậm chí một nửa tổng số 149 ghế hiện nay.
Lãnh đạo đảng Francois Hollande đã tuyên bố ông có thể từ chức và người thay thế có thể là bà Royal, người bạn đời đã có bốn con với ông.
Sóng xanh
Nếu các ứng viên không đạt được hơn 50% phiếu bầu với ít nhất 25% cử tri đi bỏ phiếu, điểm bầu cử sẽ phải tổ chức bầu cử lại vào ngày 17 tháng sáu.
Đa số các ứng viên sẽ vào vòng hai vốn là cuộc tranh đua giữa những người đạt 12.5% hoặc hơn số phiếu trong vòng một.
Cử tri Pháp chưa bầu lại bất cứ chính phủ nào kể từ năm 1978 nhưng mọi việc có thể thay đổi trong lần bầu cử này theo phóng viên BBC Emma Jane Kirby tại Paris.
Cô nói rằng ''làn sóng sanh'' ở Pháp có nghĩa là tổng thống sẽ có được điều ông muốn - sự hậu thuẫn mạnh mẽ để thực hiện chương trình cải cách kinh tế đầy tham vọng.
Các đảng thiên tả trong đó có những người cộng sản vốn có thể phải chịu kết quả tồi tệ nhất trong những năm gần đây đã kêu gọi cử tri đi bỏ phiếu đông hơn trong vòng sau.
Họ cũng cảnh báo cử tri không trao toàn quyền cho ông Nicolas Sarkozy.
Ông Sarkozy nói ông sẽ có có phiên họp đặc biệt ở quốc hội vào tháng bảy để bắt đầu loạt cải cách chính trị đầu tiên trong đó có các quy định chặt chẽ hơn về di trú và nhiều quyền tự do hơn cho các trường đại học.
Một đạo luật mới về tài chính cũng sẽ được đưa ra theo đó thu nhập từ làm việc thêm giờ sẽ không bị đánh thuế, thuế thừa kế sẽ được xóa bỏ cho hầu hết người Pháp và thuế thu nhấp cá nhân sẽ có mức tối đa là 50%.
BBC
Kết quả
http://www.lexpress.fr/info/france/dossier/legislatives2007/dossier.asp?ida=458002
dimanche 10 juin 2007
vendredi 8 juin 2007
Mối nguy của 'blogger'
24 Tháng 5 2007 - Cập nhật 15h20 GMT
Mối nguy của 'blogger'
Viết blog ngày càng phổ biến
Hơn 1/3 những người viết nhật ký trên mạng ở Anh có nguy cơ bị đuổi việc khi công bố những chi tiết tiêu cực về chỗ làm, hay sếp và đồng nghiệp của họ.
Cuộc khảo sát do công ty nhân sự Croner đặt hàng, cảnh báo rằng những người như vậy có thể bị sa thải vì có hành vi sai trái nghiêm trọng ở chỗ làm.
Các nhà khảo cứu phỏng vấn 2.000 người viết blog hay nhật ký và 39% nhìn nhận có lúc họ có những phát biểu gây hại.
Công ty này nói những người viết trên mạng phải để ý đến tác động của những gì họ đưa lên mạng.
'Không an toàn'
Gillian Dowling, chuyên viên tư vấn kỹ thuật tại Croner, tình trạng này cũng giống như hồi email bắt đầu được phổ biến rộng rãi trong thập niên 1990.
Bà Dowling nói các blogger phải cẩn thận đừng nghĩ rằng 'an toàn' khi dễ dàng bày tỏ suy nghĩ và quan điểm của họ trên mạng.
"Nếu có một tác động tiêu cực đến hình ảnh của công ty và tác động đó nghiêm trọng đến nỗi vi phạm đến điều lệ bảo mật và niềm tin giữa hai bên thì người nhân viên đó có thể bị đuổi việc."
"Blog (các bài viết) có thể được xem là chứng cớ khi xem xét công việc của người nhân viên cũng như phát hiện trường hợp phân biệt đối xử hay bắt nạt ở chỗ làm việc."
Bà Dowling nói các blogger còn có thể bị sa thải nếu tiết lộ những thông tin mật hoặc nhạy cảm về tài chính.
"Giới chủ nhân cần để ý đến tác động của việc viết blog lên công ty của mình và có những biện pháp cần thiết để giảm thiểu tối ra mọi nguy cơ."
Cuộc khảo cứu cho Croner được công ty khảo cứu internet YouGov thực hiện.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/science/story/2007/05/070524_bloggersrisks.shtml
Mối nguy của 'blogger'
Viết blog ngày càng phổ biến
Hơn 1/3 những người viết nhật ký trên mạng ở Anh có nguy cơ bị đuổi việc khi công bố những chi tiết tiêu cực về chỗ làm, hay sếp và đồng nghiệp của họ.
Cuộc khảo sát do công ty nhân sự Croner đặt hàng, cảnh báo rằng những người như vậy có thể bị sa thải vì có hành vi sai trái nghiêm trọng ở chỗ làm.
Các nhà khảo cứu phỏng vấn 2.000 người viết blog hay nhật ký và 39% nhìn nhận có lúc họ có những phát biểu gây hại.
Công ty này nói những người viết trên mạng phải để ý đến tác động của những gì họ đưa lên mạng.
'Không an toàn'
Gillian Dowling, chuyên viên tư vấn kỹ thuật tại Croner, tình trạng này cũng giống như hồi email bắt đầu được phổ biến rộng rãi trong thập niên 1990.
Bà Dowling nói các blogger phải cẩn thận đừng nghĩ rằng 'an toàn' khi dễ dàng bày tỏ suy nghĩ và quan điểm của họ trên mạng.
"Nếu có một tác động tiêu cực đến hình ảnh của công ty và tác động đó nghiêm trọng đến nỗi vi phạm đến điều lệ bảo mật và niềm tin giữa hai bên thì người nhân viên đó có thể bị đuổi việc."
"Blog (các bài viết) có thể được xem là chứng cớ khi xem xét công việc của người nhân viên cũng như phát hiện trường hợp phân biệt đối xử hay bắt nạt ở chỗ làm việc."
Bà Dowling nói các blogger còn có thể bị sa thải nếu tiết lộ những thông tin mật hoặc nhạy cảm về tài chính.
"Giới chủ nhân cần để ý đến tác động của việc viết blog lên công ty của mình và có những biện pháp cần thiết để giảm thiểu tối ra mọi nguy cơ."
Cuộc khảo cứu cho Croner được công ty khảo cứu internet YouGov thực hiện.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/science/story/2007/05/070524_bloggersrisks.shtml
jeudi 7 juin 2007
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch
Thứ Hai, 04/06/2007, 17:46 (GMT+7)
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch
5-6-1911: Chuyến ra đi lịch sử
TTO - Đã 96 năm kể từ ngày 05-6-1911, ngày chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành bước lên con tàu thủy với hai bàn tay trắng, trái tim nóng bỏng nỗi đau mất nước và quyết tâm sắt đá: khôi phục lại nước Việt, bảo vệ nền độc lập và cuộc sống tự do cho mọi người.
Ước vọng quá lớn với một chàng trai 21 tuổi. Nhưng đã thành hiện thực. Chàng trai đã đi vào lịch sử, viết nên lịch sử.
96 năm sau, nước Việt Nam không chỉ có độc lập, tự do, dân Việt không chỉ có cơm ăn, áo mặc, được học hành như ước vọng của Người. Những năm đầu TK 21 này, nước Việt Nam đã có một vị thế mới.
Lại nhớ lời Người: "sánh vai với các cường quốc năm châu". Bác ơi, ngày này chúng cháu muốn nhắc lại vài câu chuyện về anh Ba thuở ấy. Để biết rằng con đường sáng lạn mà cả dân tộc đang đi đã bắt đầu từ bước chân cô đơn của Người như thế nào....
TTO xin trích đăng lại một số mẩu chuyện ghi lại những bước hoạt động đầu tiên của Người, trích trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của tác giả Trần Dân Tiên - NXB Trẻ 2005.
........................................
Ra đi với hai bàn tay
...Một vị trí thức ở Sài Gòn kể lại cho tôi:
"Trong khi còn học ở trường Chasseloup–Laubat, tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng một lứa tuổi, cho nên chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Tôi đưa anh đến trước tiệm cà phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.
Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên anh mới nếm mùi kem.
Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi: "Anh Lê, anh có yêu nước không?"
Tôi ngạc nhiên và đáp: "Tất nhiên là có chứ!"
"Anh có thể giữ bí mật không?"
"Có".
"Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?"
"Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?"
"Đây, tiền đây" – Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay – "Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng đi với tôi chứ?"
Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh, tôi đồng ý. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ về cuộc phiêu lưu, tôi không có đủ can đảm để giữ lời hứa.
Vài ngày sau, tôi không gặp lại anh bạn nữa. Tôi đoán là anh ta đã đi ngoại quốc. Anh ta đi bằng cách nào? Tôi không biết. Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là Cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay".
Anh phụ bếp kỳ lạ
Ông Mai ở Hải Phòng, nhân viên cũ trên một chiếc tàu Pháp của hãng "Vận tải hợp nhất" đã cho chúng tôi biết những điều mà ông Lê không rõ.
Ông Mai kể lại:
"Vào khoảng cuối năm 1911 hay 1912 – tôi không nhớ đúng nữa – tôi làm việc ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu. Tàu chúng tôi cặp bến Sài Gòn để lấy hàng và đón khách.
Một buổi trưa, một người trai trẻ lên tàu. Sau một phút ngập ngừng, anh ta hỏi xin việc.
Chúng tôi trả lời là không có việc và có chăng nữa, chúng tôi cũng không có quyền nhận anh ta. Chúng tôi cười vì chàng trai có vẻ một anh học trò, không phải là người lao động như chúng tôi. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: "Một người như thế có thể làm được công việc gì trên tàu?".
Tôi không hiểu tại sao tôi thấy thương hại anh ta và tôi nói: "Đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến gặp chủ tàu. Có lẽ ông ta sẽ có việc cho anh làm".
Chủ tàu hỏi: "Anh có thể làm việc gì?"
"Tôi có thể làm bất cứ việc gì!" – Chàng trai trả lời.
"Được, ta sẽ lấy anh làm phụ bếp. Sáng mai anh đến đây nhận việc".
Chàng trai ấy xưng tên là Ba. Vì tôi đã giúp anh ta việc nhỏ ấy, cho nên anh ta rất thân với tôi, và cũng vì anh ta rất dễ mến tôi cũng rất thân với anh ấy. Việc gì tôi làm được là tôi cố làm để giúp anh ta, vì anh ta chưa biết gì cả. Vả lại, anh ấy có can đảm và nhẫn nại. Phụ bếp trên tàu, mỗi ngày anh ta phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò. Sau đó đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá v.v...
Công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét. Nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong khi tàu tròng trành.
Xong công việc ấy, phải dọn cho bọn chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, nhặt rau, rửa chảo nồi và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.
Nhà bếp lo cho bảy, tám trăm người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn. Và những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Luôn luôn nghe tiếng:
"Ba, đem nước đây!"
"Ba, dọn chảo đi!"
"Ba, thêm than chỗ này, thêm than chỗ kia!"
Suốt ngày, anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong công việc, và hơn nữa vì chưa quen việc. Anh phải gọt xong đống củ cải và khoai tây. Anh không biết làm thế nào. Tôi dạy cho anh. Tôi còn nhớ một lần gọt măng tây. Đây là lần đầu tiên anh Ba thấy măng tây. Anh ta bắt đầu gọt trơ trụi, thì vừa lúc tôi đến. Tôi hối hả quẳng xuống bể tất cả măng đã gọt và tôi bày cho anh ta phải làm như thế nào. Nhờ thế không xảy ra việc gì.
Mỗi ngày, chín giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba đọc hay viết đến mười một giờ hoặc nửa đêm. Về thứ bậc, anh Ba là người dưới chúng tôi, chúng tôi là những người có chức vị, còn anh Ba chỉ là người phụ bếp. Nhưng vì anh Ba hiểu biết – anh giúp những người bạn mù chữ của tôi viết thư về cho gia đình họ và anh không bao giờ nói tục, vì vậy anh Ba được tất cả chúng tôi yêu mến.
Một lần, dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Biển nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rổ rau vào dây sắt để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống biển mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.
Cái gì đối với anh Ba cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không ăn được bánh mì và bơ. Ăn xúp thì anh dùng nĩa.
Vài ngày sau tàu rời bến, có hai hành khách – hai người lính trẻ tuổi giải ngũ về Pháp. Tôi không hiểu tại sao hai anh này đã trở nên bạn thân của anh Ba. Họ giúp anh nhặt rau và buổi tối họ cho anh mượn những quyển sách nhỏ, dạy cho anh đọc và viết. Và anh Ba lại dạy họ quốc ngữ và thỉnh thoảng dấm dúi cho họ cốc cà phê. Anh nói với tôi với một vẻ ngạc nhiên: "Anh Mai, cũng có những người Pháp tốt, anh ạ".
Hồi ấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tầu hạng nhất cùng gia đình. Ông ta đưa con sang Pháp học. Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân mật bảo:
"Tại sao con lại làm cái nghề khó nhọc này? Bỏ nghề đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn…". Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng không nói đồng ý hay không.
Đến Mác–xây, chúng tôi lĩnh lương. Mỗi nhân viên Việt Nam được từ một trăm đến hai trăm quan, thêm vào đấy tiền thưởng của hành khách. Anh Ba là phụ bếp, chỉ được mười quan. Anh ta được ít lương, nhưng anh học được nhiều chuyện mới lạ. Coi tôi là bạn thân thiết nhất, anh ta nói với tôi tất cả những điều anh trông thấy và suy nghĩ.
"Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!".
Trông thấy những gái điếm đến làm tiền trên tàu, Ba nói với tôi:
"Tại sao người Pháp không "khai hóa" đồng bào của họ trước khi đi "khai hóa" chúng ta, sao thế anh Mai?"
Tàu điện đối với anh Ba là một chuyện kỳ lạ.
Lần đầu tiên anh ta trông thấy những "cái nhà biết chạy" ấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả. Luôn luôn anh ta nói
"Lần đầu tiên, tôi mới thấy cái này…"
Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta mượn bộ áo quần, và chúng tôi đi đến tiệm cà phê ở đường Ca–nơ–bia. Không cần phải nói, đây là lần đầu tiên anh ta vào tiệm cà phê và cũng là lần đầu tiên người Pháp gọi anh bằng "ông".
Sau những ngày đầu tiên ở Mác–xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ:
"Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông dương".
Chúng tôi đi theo tàu lên Ha–vơ–rơ (Havre) để sửa chữa. Chúng tôi được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba không muốn trở về. Ông chủ đem anh về nhà. Từ đấy, tôi không được tin tức gì của anh Ba nữa…
Không bao giờ tôi đoán rằng người bạn nhỏ của tôi, người phụ bếp, anh Ba ngây thơ, siêng năng và ngoan ngoãn ấy, lại trở thành Chủ tịch Chính phủ ta, người xây dựng nên nước Cộng hòa chúng ta".
TRẦN DÂN TIÊN
(Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Bác Hồ - NXB Trẻ 2005)
(còn tiếp)
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=204166&ChannelID=410
-------
Trần Dân Tiên và Hồ Chủ tịch (1946) (1-2)
------- Tran Dan Tien chính la Ho chi Minh !!!
Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch
5-6-1911: Chuyến ra đi lịch sử
TTO - Đã 96 năm kể từ ngày 05-6-1911, ngày chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành bước lên con tàu thủy với hai bàn tay trắng, trái tim nóng bỏng nỗi đau mất nước và quyết tâm sắt đá: khôi phục lại nước Việt, bảo vệ nền độc lập và cuộc sống tự do cho mọi người.
Ước vọng quá lớn với một chàng trai 21 tuổi. Nhưng đã thành hiện thực. Chàng trai đã đi vào lịch sử, viết nên lịch sử.
96 năm sau, nước Việt Nam không chỉ có độc lập, tự do, dân Việt không chỉ có cơm ăn, áo mặc, được học hành như ước vọng của Người. Những năm đầu TK 21 này, nước Việt Nam đã có một vị thế mới.
Lại nhớ lời Người: "sánh vai với các cường quốc năm châu". Bác ơi, ngày này chúng cháu muốn nhắc lại vài câu chuyện về anh Ba thuở ấy. Để biết rằng con đường sáng lạn mà cả dân tộc đang đi đã bắt đầu từ bước chân cô đơn của Người như thế nào....
TTO xin trích đăng lại một số mẩu chuyện ghi lại những bước hoạt động đầu tiên của Người, trích trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của tác giả Trần Dân Tiên - NXB Trẻ 2005.
........................................
Ra đi với hai bàn tay
...Một vị trí thức ở Sài Gòn kể lại cho tôi:
"Trong khi còn học ở trường Chasseloup–Laubat, tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng một lứa tuổi, cho nên chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Tôi đưa anh đến trước tiệm cà phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.
Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên anh mới nếm mùi kem.
Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi: "Anh Lê, anh có yêu nước không?"
Tôi ngạc nhiên và đáp: "Tất nhiên là có chứ!"
"Anh có thể giữ bí mật không?"
"Có".
"Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?"
"Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?"
"Đây, tiền đây" – Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay – "Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng đi với tôi chứ?"
Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh, tôi đồng ý. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ về cuộc phiêu lưu, tôi không có đủ can đảm để giữ lời hứa.
Vài ngày sau, tôi không gặp lại anh bạn nữa. Tôi đoán là anh ta đã đi ngoại quốc. Anh ta đi bằng cách nào? Tôi không biết. Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là Cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay".
Anh phụ bếp kỳ lạ
Ông Mai ở Hải Phòng, nhân viên cũ trên một chiếc tàu Pháp của hãng "Vận tải hợp nhất" đã cho chúng tôi biết những điều mà ông Lê không rõ.
Ông Mai kể lại:
"Vào khoảng cuối năm 1911 hay 1912 – tôi không nhớ đúng nữa – tôi làm việc ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu. Tàu chúng tôi cặp bến Sài Gòn để lấy hàng và đón khách.
Một buổi trưa, một người trai trẻ lên tàu. Sau một phút ngập ngừng, anh ta hỏi xin việc.
Chúng tôi trả lời là không có việc và có chăng nữa, chúng tôi cũng không có quyền nhận anh ta. Chúng tôi cười vì chàng trai có vẻ một anh học trò, không phải là người lao động như chúng tôi. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: "Một người như thế có thể làm được công việc gì trên tàu?".
Tôi không hiểu tại sao tôi thấy thương hại anh ta và tôi nói: "Đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến gặp chủ tàu. Có lẽ ông ta sẽ có việc cho anh làm".
Chủ tàu hỏi: "Anh có thể làm việc gì?"
"Tôi có thể làm bất cứ việc gì!" – Chàng trai trả lời.
"Được, ta sẽ lấy anh làm phụ bếp. Sáng mai anh đến đây nhận việc".
Chàng trai ấy xưng tên là Ba. Vì tôi đã giúp anh ta việc nhỏ ấy, cho nên anh ta rất thân với tôi, và cũng vì anh ta rất dễ mến tôi cũng rất thân với anh ấy. Việc gì tôi làm được là tôi cố làm để giúp anh ta, vì anh ta chưa biết gì cả. Vả lại, anh ấy có can đảm và nhẫn nại. Phụ bếp trên tàu, mỗi ngày anh ta phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò. Sau đó đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá v.v...
Công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét. Nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong khi tàu tròng trành.
Xong công việc ấy, phải dọn cho bọn chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, nhặt rau, rửa chảo nồi và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.
Nhà bếp lo cho bảy, tám trăm người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn. Và những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Luôn luôn nghe tiếng:
"Ba, đem nước đây!"
"Ba, dọn chảo đi!"
"Ba, thêm than chỗ này, thêm than chỗ kia!"
Suốt ngày, anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong công việc, và hơn nữa vì chưa quen việc. Anh phải gọt xong đống củ cải và khoai tây. Anh không biết làm thế nào. Tôi dạy cho anh. Tôi còn nhớ một lần gọt măng tây. Đây là lần đầu tiên anh Ba thấy măng tây. Anh ta bắt đầu gọt trơ trụi, thì vừa lúc tôi đến. Tôi hối hả quẳng xuống bể tất cả măng đã gọt và tôi bày cho anh ta phải làm như thế nào. Nhờ thế không xảy ra việc gì.
Mỗi ngày, chín giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba đọc hay viết đến mười một giờ hoặc nửa đêm. Về thứ bậc, anh Ba là người dưới chúng tôi, chúng tôi là những người có chức vị, còn anh Ba chỉ là người phụ bếp. Nhưng vì anh Ba hiểu biết – anh giúp những người bạn mù chữ của tôi viết thư về cho gia đình họ và anh không bao giờ nói tục, vì vậy anh Ba được tất cả chúng tôi yêu mến.
Một lần, dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Biển nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rổ rau vào dây sắt để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống biển mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.
Cái gì đối với anh Ba cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không ăn được bánh mì và bơ. Ăn xúp thì anh dùng nĩa.
Vài ngày sau tàu rời bến, có hai hành khách – hai người lính trẻ tuổi giải ngũ về Pháp. Tôi không hiểu tại sao hai anh này đã trở nên bạn thân của anh Ba. Họ giúp anh nhặt rau và buổi tối họ cho anh mượn những quyển sách nhỏ, dạy cho anh đọc và viết. Và anh Ba lại dạy họ quốc ngữ và thỉnh thoảng dấm dúi cho họ cốc cà phê. Anh nói với tôi với một vẻ ngạc nhiên: "Anh Mai, cũng có những người Pháp tốt, anh ạ".
Hồi ấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tầu hạng nhất cùng gia đình. Ông ta đưa con sang Pháp học. Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân mật bảo:
"Tại sao con lại làm cái nghề khó nhọc này? Bỏ nghề đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn…". Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng không nói đồng ý hay không.
Đến Mác–xây, chúng tôi lĩnh lương. Mỗi nhân viên Việt Nam được từ một trăm đến hai trăm quan, thêm vào đấy tiền thưởng của hành khách. Anh Ba là phụ bếp, chỉ được mười quan. Anh ta được ít lương, nhưng anh học được nhiều chuyện mới lạ. Coi tôi là bạn thân thiết nhất, anh ta nói với tôi tất cả những điều anh trông thấy và suy nghĩ.
"Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!".
Trông thấy những gái điếm đến làm tiền trên tàu, Ba nói với tôi:
"Tại sao người Pháp không "khai hóa" đồng bào của họ trước khi đi "khai hóa" chúng ta, sao thế anh Mai?"
Tàu điện đối với anh Ba là một chuyện kỳ lạ.
Lần đầu tiên anh ta trông thấy những "cái nhà biết chạy" ấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả. Luôn luôn anh ta nói
"Lần đầu tiên, tôi mới thấy cái này…"
Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta mượn bộ áo quần, và chúng tôi đi đến tiệm cà phê ở đường Ca–nơ–bia. Không cần phải nói, đây là lần đầu tiên anh ta vào tiệm cà phê và cũng là lần đầu tiên người Pháp gọi anh bằng "ông".
Sau những ngày đầu tiên ở Mác–xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ:
"Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông dương".
Chúng tôi đi theo tàu lên Ha–vơ–rơ (Havre) để sửa chữa. Chúng tôi được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba không muốn trở về. Ông chủ đem anh về nhà. Từ đấy, tôi không được tin tức gì của anh Ba nữa…
Không bao giờ tôi đoán rằng người bạn nhỏ của tôi, người phụ bếp, anh Ba ngây thơ, siêng năng và ngoan ngoãn ấy, lại trở thành Chủ tịch Chính phủ ta, người xây dựng nên nước Cộng hòa chúng ta".
TRẦN DÂN TIÊN
(Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Bác Hồ - NXB Trẻ 2005)
(còn tiếp)
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=204166&ChannelID=410
-------
Trần Dân Tiên và Hồ Chủ tịch (1946) (1-2)
------- Tran Dan Tien chính la Ho chi Minh !!!
Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh
mercredi 6 juin 2007
“ÐIỂM NÓNG” DIOXIN Ở VIỆT NAM: TỪ LÝ THUYẾT ÐẾN THỰC TẾ
Trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau: Nơi chào đời của thuyết điểm nóng dioxin
(Ảnh: Larry Wagoner - 1969)
“ÐIỂM NÓNG” DIOXIN Ở VIỆT NAM: TỪ LÝ THUYẾT ÐẾN THỰC TẾ
Nguyễn Minh Quang, P.E.
Tháng 1 năm 2007
PHẦN MỞ ÐẦU
Tiếp theo sau Hội nghị Khoa học Hỗn hợp Việt-Mỹ về Ảnh hưởng của Chất da cam/dioxin lên Sức khỏe và Môi trường, được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam từ ngày 3 đến 6 tháng 3 năm 2002, đại diện của hai chánh phủ đã đạt đến thỏa thuận về những công tác nghiên cứu trong tương lai, được ghi trong biên bản ghi nhớ (memorandum of understanding (MOU)) ký kết ngày 10 tháng 3 năm 2002. Những công tác nầy bao gồm việc nghiên cứu trực tiếp ảnh hưởng của việc tiếp xúc với dioxin đối với sức khỏe con người và ảnh hưởng của chất da cam/dioxin đối với môi trường và hệ sinh thái. Việc nghiên cứu sẽ ưu tiên nhắm vào dân số đang tiếp xúc nhiều với dioxin, chẳng hạn như sinh sống gần các “điểm nóng,” và nhắm vào việc xác định, định tính (characterization), và điều trị (remediation) các “điểm nóng.”
Theo biên bản ghi nhớ, “điểm nóng” là những nơi có mức độ dioxin ở trong đất cao. Một vài nơi đã được xác định, còn những nơi khác được xem như là hiện hữu, nhưng vị trí của chúng chưa được xác định. Hai nghiên cứu được thỏa thuận để tiến hành bao gồm việc nghiên cứu hệ sinh thái và phục hồi rừng suy thoái, chẳng hạn như rừng Mã Ðà, và việc nghiên cứu để xác định, định tính, và điều trị những điểm nóng, chẳng hạn như phi trường Ðà Nẳng (1). Hai địa điểm nầy do các khoa học gia Việt Nam đề nghị.
Ðại diện hai chánh phủ tại Hội nghị ở Hà Nội năm 2002
Ðây không phải là lần đầu tiên những “điểm nóng” dioxin ở Việt Nam được đề cập đến. Chúng đã được công bố vào năm 1998 sau các nghiên cứu hỗn hợp giữa Hatfield Consultants Ltd. ở West Vancouver, Canada (HCL) và Ủy ban quốc gia điều tra về hậu quả chất độc hóa học dùng trong chiến tranh Việt Nam (Ủy ban 10-80) để xác định mức độ dioxin trong môi trường Việt Nam (2). Chúng là tiêu điểm của cái gọi là “thuyết điểm nóng Hatfield” và là chủ đề của nhiều phúc trình và bài viết do HCL biên soạn (3-6). Có lẽ vì lý do đó, HCL đã được Ủy ban quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Ủy ban 33) của chánh phủ Việt Nam mướn để nghiên cứu “... nhằm ngăn chận dioxin lan rộng chung quanh phi trường Ðà Nẳng, và đánh giá khả năng bảo vệ sức khỏe của người dân sinh sống trong vùng phụ cận.” (7) Các nghiên cứu nầy do Ford Foundation tài trợ.
Những “điểm nóng” dioxin có thật sự hiện hữu ở Việt Nam hiện nay hay không? Nếu có, chúng “nóng” đến mức độ nào? Bài viết nầy nhằm mục đích trả lời hai câu hỏi đó.
THUYẾT ÐIỂM NÓNG
HATFIELD
Theo HCL, tất cả các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được xem như là (theorized) những điểm nóng dioxin ở Việt Nam. Thuyết nầy dường như được hình thành sau khi 2,3,7,8-trichlorodibenzo-p-dioxin (dioxin, TCDD, hoặc T4CDD) được tìm thấy trong một mẩu đất lấy ở trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau năm 1997. Mẩu đất có nồng độ 901,2 phần ức (parts per trillion (ppt)) Tổng TEQs (Total Toxicity Equivalents), vượt quá 350 ppt Tổng TEQs, là tiêu chuẩn để bảo vệ sức khỏe con người cho đất nông nghiệp, thổ cư, và công viên ở Canada (8). Mặc dù nồng độ dioxin trong các mẩu đất lấy ở cùng vị trí trong năm 1999 không vượt quá 350 ppt Tổng TEQs, HCL vẫn duy trì thuyết điểm nóng vì “... cho dù một căn cứ được xem là không ô nhiễm nghiêm trọng, căn cứ đó vẫn có thể ‘nóng’ nếu vị trí chính xác của các khu vực Ranch Hand được xác định và phân tích.” (6)
Tổng TEQs được dùng để đánh giá nguy cơ của việc tiếp xúc với một hỗn hợp (combination) bao gồm các hợp chất họ dioxin (dioxin-like compounds). Nó là tích số của nồng độ của từng hợp chất họ dioxin, Ci, với hệ số độc tố tương đương với dioxin, TEFi (TCDD toxicity equivalency factor), cho hợp chất đó. Tổng TEQs là tổng số của mỗi TEQs của từng hợp chất:
Tổng
Hatfield Consultants Ltd. cho rằng hình thức ô nhiễm TCDD quan sát trong thung lũng A Lưới [nồng độ trong đất vượt quá tiêu chuẩn 350 ppt TEQs của British Columbia (Canada)] là khuôn mẫu cho tình trạng ô nhiễm ở khắp miền Nam Việt Nam, nơi có vô số bồn chứa TCDD hiện hữu trong đất ở các căn cứ quân sự cũ của Mỹ.
“Trong nghiên cứu của chúng tôi, các căn cứ quân sự được xem là các điểm nóng dioxin dựa trên mức độ dioxin của mẩu đất lấy từ các địa điểm ở gần mỗi căn cứ. Như đã trình bày, các điểm ô nhiễm ‘chính’ thì chưa được xác định/phân tích; do đó, dù một căn cứ được xem như không ô nhiễm nghiêm trọng, căn cứ đó vẫn có thể ‘nóng’ nếu vị trí chính xác của khu vực Ranch Hand được xác định và phân tích.
Một căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở Việt Nam không được xếp vào loại ‘nóng’ không có nghĩa là nó không bị ô nhiễm; nó chỉ có nghĩa là ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xác định vì thiếu dữ kiện (trong nghiên cứu nầy, nghiêm trọng được định nghĩa là ≥ 190 pg/g [ppt] TCDD).”
“Thuyết điểm nóng Hatfield” được trình bày khá chi tiết trong nhiều bài viết chuyên môn của HCL. “Những địa điểm có mức độ dioxin trong đất cao có thể gọi là ‘điểm nóng’ chất da cam/dioxin. Chúng tôi chọn đất, một bộ phận của môi trường ở thung lũng A Lưới, như là một yếu tố để xác định các điểm nóng. Nếu ô nhiễm đất ở thung lũng là tiền đề của ô nhiễm thực phẩm và con người hiện nay, thì đất phải được dùng như là yếu tố chính yếu trong việc xác định một điểm nóng.” (4)
“Các điểm nóng xác định bởi Hatfield đang hiện diện, đó là đất có mức độ TCDD rất cao vì tiếp nhận nhiều TCDD hơn trong thời gian chiến tranh. Ðiều quan trọng là những điểm nóng Hatfield không phải là vùng rừng rậm bạt ngàn, mục tiêu của các phi vụ thường xuyên của Chiến dịch Ranch Hand, ám số của chương trình phun thuốc khai quang của Quân đội Mỹ... Những điểm nóng hiện nay là đất nơi chất da cam bị rò rỉ, được xịt từ bồn chứa gắn trên xe, kể cả việc phun thuốc chung quanh các căn cứ, v.v., cho nên đất ở đây có mức tiếp nhận dioxin nhiều hơn so với đất ở vùng bị phun thuốc từ trên không. Nồng độ TCDD cao nhất được tìm thấy trong các mẩu đất lấy ở trại gia binh bên trong một căn cứ cũ của lực lượng đặc biệt Mỹ ở thung lũng A Lưới (Dwernychuk et al., 2002). Hai căn cứ khác trong thung lũng, được sử dụng trong một thời gian ngắn hơn, cũng có mức độ TCDD trong đất cao hơn những vùng bị phun thuốc từ trên không... Các căn cứ Ranch Hand ở Biên Hòa và Ðà Nẳng là những điểm nóng quan trọng điển hình. Nồng độ TCDD trong đất ở Biên Hòa được ghi nhận lên đến 1,2 triệu phần ức (ppt) (Schecter et al., 2001). Tài liệu mật [anecdotal] từ các khoa học gia Việt Nam cho thấy mức độ dioxin trong đất ở Ðà Nẳng có thể lên đến vài trăm ngàn ppt.” (5)
“Các căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Ðà Nẳng, Phù Cát, và Biên Hòa có thể được xem như là những ‘điểm nóng’ quan trọng vì nồng độ TCDD quan sát được ở ‘hạ lưu” của các địa điểm tình nghi là khu vực Ranch Hand. Trong nghiên cứu nầy, các ‘địa điểm tình nghi chính yếu’ chưa được trực tiếp phân tích vì chánh quyền Việt Nam không cho phép. Tuy nhiên, những trị số TCDD rất cao (Bảng 1), cho thấy sự quan trọng của chất da cam trong toàn thể độc tố của các mẩu đất hoặc bùn, vì TCDD phát xuất từ chất da cam... Một căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở Việt Nam không được xếp loại ‘nóng’ không có nghĩa là nó không bị ô nhiễm; nó chỉ có nghĩa là ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xác định vì thiếu dữ kiện (trong nghiên cứu nầy, nghiêm trọng được định nghĩa là ≥ 190 pg/g [phần ức hay ppt] TCDD).” (6)
TAI NẠN THUỐC KHAI QUANG TRONG THỜI CHIẾN
Những tai nạn liên quan đến việc sử dụng thuốc khai quang trong cuộc chiến Việt Nam; chẳng hạn như rò rỉ từ bồn chứa, xả khẩn cấp hoặc rò rỉ từ máy bay Ranch Hand, và thiệt hại về cây ăn trái và hoa màu; được báo cáo trong nhiều tài liệu mật. Những tài liệu nầy; gồm có biên bản ghi nhớ, ghi chú, và phúc trình để báo cáo kết quả điều tra tai nạn; vừa được giải mật và công bố qua Trung tâm Sưu tầm Tài liệu của Quân vụ Hoa Kỳ (Center for Unit Records Research of the US Armed Services (USAS/CURR)) ở Springfield, Virginia. Một số tai nạn liên quan đến thuốc khai quang đáng chú ý được mô tả tóm tắt dưới đây.
Rò rỉ thuốc khai quang ở Căn cứ Không quân Biên Hòa
Căn cứ Không quân Biên Hòa là căn cứ lớn nhất trong số 5 căn cứ vận hành của Chiến dịch Ranch Hand bao gồm Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt (Sài Gòn), Ðà Nẳng, Nha Trang, và Phù Cát (Qui Nhơn). Hầu hết các phi vụ khai quang Ranch Hand thực hiện từ tháng 12/1966 đến tháng 07/1970 đều xuất phát từ căn cứ nầy (9).
Theo biên bản ghi nhớ của Trung tá Keith W. West, Tư lệnh Phi đoàn Ðặc nhiệm (SOS) 12th của Chiến dịch Ranch Hand ở Căn cứ Không quân Biên Hòa, các vụ rò rỉ thuốc khai quang xảy ra từ đường ống ngầm của hệ thống tồn trữ và phân phối mới vừa hoàn tất vào ngày 14 tháng 1 năm 1970. Hệ thống được xây dựng để có thể bơm 3 loại thuốc khai quang (trắng, xanh, và da cam) từ các bồn chứa vào các máy bay Ranch Hand đậu ở khu vực tiếp liệu và bảo trì. “Ðường ống ngầm bằng plastic có thể chịu một áp suất lên đến 300 PSI [pounds per square inch]. Áp suất tối đa dùng bơm thuốc khai quang lên máy bay vào khoảng 45 đến 65 PSI. Vì tất cả đường ống đều nằm dưới mặt đất, rò rỉ chỉ được phát hiện khi áp suất trong đường ống bị giảm bất thường. Số lượng của mỗi bồn chứa được theo dõi hàng ngày bằng số lượng còn trong bồn trừ số lượng bơm lên máy bay. Dường như đây là phương pháp duy nhất để xác định xem có rò rỉ hay không [?].” (10)
Ngày 15 tháng 1 năm 1970, gần 500 gallons chất màu trắng rò rỉ từ mối nối chữ T của đường ống ngầm. “Không có thuốc khai quang chảy tràn trên mặt đất; tất cả số lượng rò rỉ thấm vào đất ở chung quanh chỗ bị bể.” (10) Ngày 5 tháng 2 năm 1970, một mối nối chữ L của đường ống ngầm bị sút khiến khoảng 1.000 gallons chất da cam bị rò rỉ, nhưng chi tiết không được báo cáo. Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 2 năm 1970, một mối nối khác của đường ống ngầm lại bị sút. Gần 500 gallons chất da cam bị thất thoát, nhưng chi tiết không được báo cáo.
Tai nạn nghiêm trọng nhất có lẽ xảy ra ngày 28 tháng 2 năm 1970 với khoảng 7.500 gallons chất da cam rò rỉ từ một lỗ thủng có đường kính ½ inch trên đường ống ngầm. “Vào khoảng 7:30 sáng ngày 1 tháng 3 năm 1970, Thiếu tá Iorcross, 12SOS được Trung sĩ Webb của Ban Thuốc khai quang thông báo việc rò rỉ trong hệ thống bơm thuốc khai quang. Công binh được thông báo để đào đường ống sau khi đã đóng tất cả các khóa (valves) của hệ thống. Một lỗ thủng có đường kính ½ inch được tìm thấy trên một đoạn ống thẳng giữa khu S-13 và S-12 (tham khảo sơ đồ tổng thể của BHAB, RVN [Căn cứ Không quân Biên Hòa, Việt Nam Cộng Hòa] trong hồ sơ của Chỉ huy trưởng Bảo trì, 3TFW [Vùng III Chiến Thuật]). Vào lúc nầy, sĩ quan trực của Phi đoàn Ðặc nhiệm 12th được thông báo và số lượng thuốc khai quang trong bồn chứa chất da cam được kiểm tra. Sau khi khấu trừ số lượng sử dụng trong đêm qua, 3 feet (khoảng 7.500 gallons) thuốc khai quang được xác nhận là thất thoát.
Một bồn chứa thuốc khai quang
ở Căn cứ Không quân Biên Hòa (9)
Việc rò rỉ được sửa chữa bằng cách gắn mối nối Dresser chung quanh nơi đường ống bị hư hại. Một bờ đất được đấp ngay lập tức để chận nước chảy tràn trên mặt đất (ước lượng khoảng 100 gallons).
Sau đó một đập làm bằng đất lấy tại chỗ được xây ngay phía dưới đường ống ngầm để chận nước chảy tràn nếu đường ống bị bể trong tương lai. Ngày 7 tháng 3, Bác sĩ của Phi đoàn được liên lạc để xác định phương pháp lấy mẩu nước và đất ở nơi bị ô nhiễm thuốc khai quang. Những biện pháp kiểm soát tại chỗ đã được thay đổi để đóng tất cả các khóa của hệ thống vào ban đêm, ngoại trừ trường hợp phải bơm thuốc lên máy bay. Vì tất cả những tín hiệu của hệ thống (áp suất của bơm và lưu lượng của thuốc khai quang ở vòi) vẫn bình thường, biện pháp nầy được xem là cần thiết để tránh những tai nạn tương tự trong tương lai.
Khoảng 2 tuần sau, Ðại úy Altum, MACV J3-09, được báo cáo trong một chuyến thăm viếng của Ông. Tai nạn rò rỉ, những biện pháp khắc phục, và nhu cầu lấy mẩu để xác định ảnh hưởng của đường ống bể được thảo luận. Bác sĩ của Phi đoàn đề nghị Quân Y Biên Hòa phụ trách vấn đề lấy mẩu. Họ cho biết, căn cứ không quân gần nhất có khả năng thử nghiệm 2-4D và 2-4-5T là Căn cứ Không quân McCellan. Trung sĩ Larson bên Quân Y đã liên lạc với Phi đoàn Ðặc nhiệm 12th vào ngày 22 tháng 3 năm 1970 để thảo luận phương pháp lấy mẩu nước.
Ðập đất đã ngăn chận được tất cả nước và thuốc khai quang còn sót lại. Chất lỏng không còn chảy vào hệ thống thoát nước nữa. Tuy nhiên, nơi xảy ra tai nạn hiện đang ngập đầy nước nên đập đất sẽ không còn hiệu quả trong mùa mưa. Một số lượng nước đã được xả qua đập và để cho thấm vào đất cát trong mương thoát nước.
Tai nạn được báo cáo lên Ðại tá Whiteside, MACV J3-09, ngày 21 tháng 3 năm 1970. Theo đề nghị của Ông, Công binh sẽ thay thế tất cả ống plastic bằng ống sắt và be bờ chung quanh các bồn chứa để ngăn chận tất cả thuốc khai quang trong trường hợp các bồn chứa bị bể.” (10)
Những nơi bị thiệt hại vì thuốc khai quang
trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng (12)
Ảnh hưởng đối với môi trường của các vụ rò rỉ nầy đã được điều tra và mô tả trong một biên bản ghi nhớ do Pacific Technical Analysts – Subsidiary soạn ngày 29 tháng 4 năm 1970. “Các vụ rò rỉ đã làm một vài nơi của nền đất đấp (artificial fill) và đất cát lắng ở mương thoát nước bị bão hòa. Vụ rò rỉ từ đường ống bể ngày 1 tháng 3 năm 1970 làm bão hòa một phần của nền đất đấp, và một phần giữa nền đất đất đấp và lớp đất cát pha sét ở bên dưới. Các mẩu đất lấy ở vách mương khảo sát (exploration trench), được đào giữa nơi rò rỉ và đường thoát nước, bị ô nhiễm thuốc khai quang da cam với nồng độ thay đổi từ 0,2 cho đến 106,1 phần triệu (parts per million (ppm)). Sự phân phối các mẩu nầy cho thấy thuốc khai quang bị giới hạn trong nền đất đấp và khoảng 1 đến 2 inches phần trên cùng của lớp đất cát pha sét. Nồng độ trong đất lên đến 10 phần triệu, được tìm thấy trong các mẩu lấy từ lớp đất cát pha sét hoặc lớp đất sét có nhiều màu (mottled clay) nằm bên dưới nền đất đấp từ 1 đến 3 feet, có lẽ do sự lan truyền cơ học (mechanical spreading) trong khi đào mương khảo sát. Thuốc khai quang khó có thể lan xa hơn một vài inches trong lớp đất cát pha sét nằm bên dưới nền đất đấp trong suốt thời gian kể từ khi xảy ra vụ rò rỉ.” (11)
Thiệt hại cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng
Những thiệt hại do thuốc khai quang gây ra cho cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng xảy ra trong tháng 9 và 10 năm 1968. Kết quả nhiều cuộc điều tra, được thực hiện để xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại, cho thấy cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng bị thiệt hại vì số thuốc khai quang còn sót lại trong các thùng 55-gallon đựng thuốc khai quang (12-15).
“Việc phân phối rộng rãi các thùng không từng chứa thuốc khai quang, với khoảng từ 2 đến 3 gallons thuốc còn sót lại, rất phổ biến ở hai căn cứ Ranch Hand chánh yếu ở Biên Hòa và Ðà Nẳng. Việc vận chuyển các thùng không nầy trong khắp thành phố và vùng phụ cận, cộng với việc rò rỉ và bay hơi (volatilization) không thể tránh khỏi của thuốc khai quang còn sót lại trong thùng, chắc chắn, đã gây thiệt hại đáng kể cho cây che mát (shade trees), cây ăn trái, và hoa màu trong vùng mà các thùng không nầy được phế thải. Vấn đề được ghi nhận trong phúc trình “Thiệt hại do thuốc khai quang ở Ðà Nẳng” ngày 25 tháng 3 năm 1969 của Trung tá Jim Corey, Chỉ huy phó CORDS/NLD/I CTZ, gởi cho R.M. Urguhart, Chỉ huy trưởng CORDS/NLD/I CTZ, được lưu trữ trong hồ sơ của Ban Hành quân Hóa học (Chemical Operations Division), MACV J3-09. Như được trình bày trong phúc trình và được các thành viên của đoàn quan sát trong vùng Ðà Nẳng, rất nhiều thùng không từng đựng thuốc khai quang được tìm thấy khắp nơi trong thành phố và vùng phụ cận. Các thùng nầy được dùng để đựng xăng, dầu cặn (diesel fuel) và nước dù có một số ít thuốc khai quang vẫn còn sót lại trong thùng. Việc dùng xăng bị ô nhiễm thuốc khai quang để chạy xe gắn máy và các loại xe khác chắc chắn là nguyên nhân chánh yếu của các thiệt hại do hiện tượng bay hơi của nhiều chất khác nhau được chứa trong các thùng không.
Mức thiệt hại trong thành phố Ðà Nẳng đã đưa đến những biện pháp giới hạn việc phân phối các thùng thuốc khai quang. Một trong các biện pháp cần thiết để ngăn chận sự thiệt hại là chôn hoặc phế thải một cách an toàn (safe disposal) các thùng không bị ô nhiễm thuốc khai quang.” (15)
Thiệt hại do số thuốc khai quang còn sót lại trong thùng từng đựng thuốc khai quang không chỉ giới hạn trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng. Một cuộc điều tra trong tháng 9 năm 1969 cũng cho thấy những thiệt hại tương tự ở bên trong Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ở Ðà Nẳng. “Có tất cả tám thùng thuốc khai quang DA CAM được tìm thấy bên trong Bộ Tư lệnh. Hai trong bốn thùng ở Bãi xăng dầu còn nồng nặc mùi thuốc khai quang. Bốn thùng còn lại ở gần xe báo hiệu thì chứa đầy xăng. Xăng trong các thùng nầy dùng để chạy máy phát điện. Phó tư lệnh James và Ông Xuân được thông báo là xăng trong các thùng có thể chứa một ít thuốc khai quang, do đó, khói do máy phát điện phun ra sẽ chứa hơi thuốc khai quang có thể ảnh hưởng đến hoa màu ở chung quanh. Họ cũng được lưu ý rằng hơi bốc ra từ số thuốc khai quang còn sót lại trong các thùng không cũng có thể là nguyên nhân gây thiệt hại cho hoa màu ở gần đó.” (16)
Xả khẩn cấp và rò rỉ từ máy bay Ranch Hand
Trong trường hợp khẩn cấp như động cơ bị hư vì trúng hỏa lực của địch hay vì lý do kỹ thuật, toàn bộ 1.000 gallons thuốc khai quang trong bồn chứa trên máy bay UC-123 phải được xả khẩn cấp (emergency dumping) để bảo đảm an toàn cho máy bay và phi hành đoàn. Máy bay UC-123 là loại máy bay dùng trong Chiến dịch Ranch Hand. Theo tài liệu thống kê của Quân đội Hoa Kỳ, có 37 vụ xả khẩn cấp với tổng cộng 11.800 gallons thuốc khai quang đã xảy ra từ năm 1965 đến 1970; gồm có 11 vụ với 4.200 gallons chất da cam, 8 vụ với 2.100 gallons chất màu xanh, 6 vụ với 3.900 gallons chất màu trắng, và 12 vụ với 1.600 gallons thuốc khai quang không rõ loại (17).
“Hồ sơ lưu trữ của Ban Hành quân Hóa học ở MACV cho thấy năm vụ xả khẩn cấp từ máy bay RANCH HAND xảy ra trong khoảng từ ngày 1 tháng 12 năm 1968. Một vụ xảy ra ở ngoài biển Ðông, cách bờ khoảng 10 km về phía nam tỉnh Bạc Liêu. Bốn vụ còn lại xảy ra trong phạm vi có bán kính từ 20 đến 25 km chung quanh Biên Hòa ở cao độ từ 2.000 đến 3.500 feet. Kết quả khảo sát một vị trí cách Biên Hòa 20 km về phía thượng nguồn sông Guai [?] của Marvin Davis bên USAID cho thấy thiệt hại về cây ăn trái, dừa, cây kiểng, và hoa màu có giá trị cao trong một vùng rộng khoảng 1 km và dài khoảng 2 km. Ở một vị trí khác gần làng Mỹ Quới, tỉnh Biên Hòa nơi chất DA CAM được xả từ cao độ 2.500 feet, vùng thiệt hại rộng khoảng 1 km và dài khoảng 2-3 km, cũng theo phúc trình của Marvin Davis bên USAID. Cam quít, xoài, chuối, dừa, cau bị thiệt hại nặng nhất. Tuy nhiên, hoa màu ngắn ngày được trồng 6 tuần sau vụ xả khẩn cấp thì không bị ảnh hưởng. Thiệt hại của các vụ xả khẩn cấp có thể rất nặng trong vùng ảnh hưởng của chúng, nhưng nếu gặp điều kiện thời tiết thuận lợi, những vùng chung quanh cũng có thể bị thiệt hại, nhưng nhẹ hơn, vì thuốc bị thổi tạt đi xa hơn khi được phun ở cao độ khá cao. Một phần thiệt hại của cây che mát ở phía đông thành phố Biên Hòa có thể do những vụ xả khẩn cấp ở vùng phụ cận gây ra.” (16)
Rò rỉ có thể xảy ra từ máy bay UC-123 hoặc trực thăng nếu vòi của hệ thống phun trên máy bay bị rò rỉ. “Vòi thường bị rò rỉ trên đường bay trở về căn cứ sau khi hoàn tất phi vụ. Vì màn bơm bị kẹt nên một số lượng nhỏ thuốc khai quang còn sót lại trong ống phun có thể rơi xuống sau khi tắt máy bơm thuốc. Mức thiệt hại do thuốc khai quang rò rỉ từ hệ thống bơm trên máy bay UC-123 gây ra cho hoa màu và các loại thực vật khác thì không được biết, nhưng chắc là rất thấp vì chỉ liên quan đến một số lượng nhỏ thuốc khai quang và bị khuếch tán khi rò rỉ từ cao độ khá cao.” (16) Lúc ban đầu, rò rỉ từ máy bay Ranch Hand bị nghi ngờ là nguyên nhân của những thiệt hại nặng nề ở vườn rau kiểu mẫu ở Quận Hòa Vang trong tháng 9 năm 1968. Vườn rau kiểu mẫu nầy nằm ở phía nam của Căn cứ Không quân Ðà Nẳng, trên đường cất cánh thông thường của máy bay Ranch Hand. Nhưng “Việc rò rỉ khó có thể xảy ra khi máy bay cất cánh hay trước khi thuốc khai quang trên máy bay được phun. Rò rỉ chỉ xảy ra khi khóa bị hư sau khi phun thuốc... Cũng cần nói thêm là những vùng thiệt hại khác thì nằm ngoài đường bay của máy bay phun thuốc khai quang. Hơn nữa, hoa màu đang trồng bên phía đông Ðà Nẳng (vùng tô màu nâu trên bản đồ) thì không bị thiệt hại mặc dù máy bay Ranch Hand vẫn thường bay qua vùng nầy.” (12)
Tai nạn không hề biết
ở Tân cảng Sài Gòn
Tai nạn đổ tháo thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn thì không hề được biết đến như các tai nạn khác, nhưng được ghi nhận một cách tình cờ qua các hình ảnh cá nhân do thành viên của Tiểu đoàn Vận tải 71st chụp và đăng tải trên một trang web của Allan Furtado (một trung sĩ của Ðại đội 154th) có địa chỉ là http://www.allanfurtado.com.
Tân cảng Sài Gòn năm 1968 (19)
Những thùng thuốc khai quang
vận chuyển qua Tân cảng Sài Gòn (20)
Tân cảng Sài Gòn nằm trên sông Sài Gòn, cách Cảng Sài Gòn khoảng 3 dặm về hướng bắc, ngay phía dưới cầu Sài Gòn trên Xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa. Cảng do công ty Raymond International, Morrison-Knudson International, Brown & Root and J. A. Jones (RMK-BRJ) xây cất trên một khu đất rộng khoảng 100 acres, một phần là ruộng lúa và một phần là đầm lầy ngập nước khi thủy triều lên. Sau khi hoàn tất vào cuối năm 1966, Tân cảng Sài Gòn được điều hành bởi Tiểu đoàn Vận tải 71st có căn cứ ở Fort Story, Virginia để tiếp nhận tất cả hàng hóa của Quân đội Hoa Kỳ đang được bốc dỡ ở Cảng Sài Gòn vào thời điểm đó (18).
Những thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn (21)
Những thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn (21)
Những thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn bị hư hại
vào tháng 5 năm 1968 (22)
Những thùng chất da cam ở Tân cảng Sài Gòn (21)
Trong đợt Tổng công kích Tết Mậu Thân giai đoạn 2, Tân cảng Sài Gòn bị pháo kích bằng hỏa tiển 122 mm và súng cối vào ngày 12 tháng 5 năm 1968. Vụ tấn công nầy đã gây thiệt hại quan trọng cho cơ sở và khí cụ ở Tân cảng Sài Gòn. Cầu Sài Gòn cũng bị hư hại.
Văn phòng điều hành bị hư hại (22)
Khí cụ bị hư hại (22)
Cầu Sài Gòn bị hư hại (21)
Trong số các thiệt hại đó có thể là hàng ngàn thùng chất da cam và chất màu trắng, được ghi nhận tình cờ trong một bức ảnh với lời chú thích: “Bức ảnh nầy cũng được đăng trên một trong các trang web của Al Krabbenhoeft. Tôi nghĩ rằng nó đáng để chúng ta xem lại một lần nữa. Một nhân viên dân sự ở Tân cảng đang quan sát vị trí nơi James Lake thiệt mạng vì hỏa tiển pháo kích ngày 12 tháng 5 năm 1968. Cô đang cười vì được chụp ảnh. Hãy nhìn phía sau. Ðó là những thùng bị hư và bể. Khi nhìn kỹ sẽ thấy những sọc màu trắng và da cam.” Bức ảnh nầy được chụp bởi SP4 Richard Allen Morawa, thành viên của Ðại đội 368th thuộc Tiểu đoàn Vận tải 71st, phụ trách bảo vệ an ninh cho Tân cảng Sài Gòn vào lúc đó (22).
TIÊU CHUẨN DÙNG ÐỂ
XÁC ÐỊNH “ÐIỂM NÓNG”
Vì Việt Nam chưa có tiêu chuẩn dùng để xác định địa điểm ô nhiễm, HCL đã dùng tiêu chuẩn do tiểu bang British Columbia, Canada (BC) ấn định cho đất nông nghiệp và đất thổ cư/công viên để xác định điểm nóng dioxin ở Việt Nam. Ðể bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn BC giới hạn nồng độ dioxin trong đất ở mức 10 ppt Tổng TEQs đối với đất nông nghiệp và 1.000 ppt Tổng TEQs đối với đất thổ cư/công viên. Ðể bảo vệ sức khỏe con người, nồng độ dioxin trong đất không được quá 350 ppt Tổng TEQs cho tất cả các loại đất (8).
Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ (EPA) đã ấn định mục tiêu điều trị
tạm thời (Preliminary Remediation Goals) hay khởi điểm cho việc ấn định
mức tẩy xóa dioxin ở trong đất tại các địa điểm khắc phục ô nhiễm chi phối
bởi Ðạo luật Tổng quát về Ðối phó, Bồi thường, và Trách nhiệm Môi trường
(Comprehensive Environmental Response, Compensation, and Liability Act
(CERCLA), thường được gọi là các địa điểm “Siêu ngân.”
Ðối với đất thổ cư, 1 phần tỉ (hay 1.000 ppt) Tổng TEQs được dùng làm
khởi điểm để tẩy xóa dioxin ở các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu
điều trị tạm thời để giảm dioxin ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm.
Ðối với đất thương mãi/kỹ nghệ, nồng độ trong đất từ 5 đến 20 phần tỉ
(5.000 đến 20.000 ppt) Tổng TEQs được dùng làm khởi điểm
để tẩy xóa dioxin ở các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị
tạm thời để giảm dioxin ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm
Ở Hoa Kỳ, Cơ quan Bảo vệ Môi sinh (EPA) đã ấn định mục tiêu điều trị tạm thời (preliminary remediation goals (PRGs)) hay khởi điểm cho việc ấn định mức tẩy xóa dioxin ở trong đất tại các địa điểm khắc phục ô nhiễm (corrective action sites) chi phối bởi Ðạo luật Tổng quát về Ðối phó, Bồi thường, và Trách nhiệm Môi trường (Comprehensive Environmental Response, Compensation and Liability Act (CERCLA)) và Luật Bảo tồn và Phục hồi Tài nguyên (Resource Conservation and Recovery Act (RCRA)), thường được biết dưới cái tên địa điểm “Siêu ngân” (“Superfund” sites). Những mức độ nầy được ấn định để bảo vệ sức khỏe con người và môi trường. “Một ppb [phần tỉ hay 1.000 ppt] (TEQs, hay độ độc tương đương) được dùng làm khởi điểm để ấn định mức tẩy xóa cho các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị tạm thời để giảm mức độ dioxin trong đất thổ cư ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm. Ðối với đất thương mãi/kỹ nghệ, một nồng độ trong đất từ 5 đến 20 phần tỉ [5.000 đến 20.000 ppt] (TEQs) phải được dùng làm khởi điểm để ấn định mức tẩy xóa cho các địa điểm “Siêu ngân’ và làm mục tiêu điều trị tạm thời để giảm mức dioxin trong đất ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm.” (23)
Cơ quan Phòng ngừa Bệnh tật và Ðộc tố (Agency for Toxic Substances and Disease Registry (ATSDR)) thuộc Bộ Y tế và Xã hội Hoa Kỳ cũng đã phê chuẩn một tài liệu hướng dẫn tạm thời (interim policy guideline) để lượng giá ảnh hưởng của các hợp chất dioxin và họ dioxin (dioxin and dioxin-like compounds) trong đất thổ cư ở tại hoặc gần các địa điểm có chất thải độc hại (hazardous waste sites). Tài liệu hướng dẫn tạm thời nầy giải thích một cách rõ ràng và hợp lý chánh sách và đường lối hiện nay của ATSDR đối với những hiểm nguy do sự hiện diện của TCDD (dioxin) và các hợp chất cùng họ ít độc hơn, chlorinated dibenzo-p-dioxins (CDDs) và chlorinated dibenzo furans (CDFs), ở trong đất thổ cư.
Khi nồng độ ước tính trong đất thay đổi trong khoảng từ 50 đến 1.000 ppt Tổng TEQs, phương pháp cân nhắc bằng chứng (weight-of-evidence approach) phải được áp dụng để đánh giá mức độ ô nhiễm và ảnh hưởng của chúng đối với sức khỏe con người. Nồng độ 1.000 ppt Tổng TEQs được ATSDR xem như là “nồng độ của hóa chất, ở đó, các biện pháp để chận đứng hoặc ngăn ngừa ô nhiễm cần phải được cứu xét, chẳng hạn như khảo sát, khảo cứu, nghiên cứu y tế, giáo dục cộng đồng, tu nghiệp, hoặc điều tra tình trạng tiếp xúc với ô nhiễm (exposure investigations). Tuy nhiên, những biện pháp nầy có thể không cần thiết tùy theo kết quả lượng định của Giám định viên Y tế (health assessor).” (24)
Giám định viên Y tế phải trả lời các câu hỏi sau đây:
· Phạm vi ô nhiễm rộng như thế nào?
· Ô nhiễm tập trung hay lan rộng?
· Người lớn và trẻ con có tiếp cận dễ dàng với đất hoặc nơi ô nhiễm không? Vùng ô nhiễm như thế nào (có cây cối hay không)?
· Ở địa điểm nầy, chu kỳ (hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng) và thời khoảng (tháng, năm, trọn đời) tiếp xúc với ô nhiễm ra sao?
Nếu việc tiếp xúc với đất thổ cư có nồng độ dioxin vượt quá 1.000 ppt Tổng TEQs được xem là thái quá, địa điểm được ATSDR ấn định là nguy hiểm cho sức khỏe công cộng. Các biện pháp và đề nghị cá biệt về y tế cần phải được cứu xét để ngăn ngừa hoặc ngăn chận việc tiếp xúc với ô nhiễm.
NỒNG ÐỘ DIOXIN TRONG ÐẤT
Ở CÁC “ÐIỂM NÓNG”
Trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau
Vị trí của các căn cứ quân sự trong thung lũng A Shau (26)
Trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau (nay là A Sô) là một trong ba căn cứ của lực lượng đặc biệt được thiết lập trong thung lũng A Shau (nay là A Lưới). “Thung lũng A Shau, một vùng đất nhiệt đới giàu có và màu mỡ dài 35 miles, chạy dọc theo ranh giới phía tây của tỉnh Thừa Thiên. Bạn có thể cảm nhận sự thần bí của thung lũng khi nhìn thấy nó lần đầu tiên, từ trên không hay ở dưới đất. Tài liệu lịch sử của A Shau không có bao nhiêu. Kể từ năm 1962, thung lũng đã trở thành ác mộng của lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam [Cộng Hòa] khi họ thiết lập các căn cứ ở A Lưới trong vùng trung bắc, ở Tà Bạt trong vùng trung tâm, và ở A Shau trong vùng phía nam. Ngoài ba căn cứ với các phi đạo tí hon, A Shau còn có khoảng 30.000 cư dân thuộc sắc tộc Katu và Pakoh. Các trại nầy, từng trại một, bị bắt buộc phải đóng cửa vì không thể tiếp tục hoạt động dưới áp lực của Việt Cộng và quân Bắc Việt. Yếu tố tiếp liệu, thời tiết, và địch quân là các lý do của việc rút quân, đầu tiên là A Lưới, rồi Tà Bạt, và sau cùng là A Shau vào tháng 3 năm 1966. Thung lũng thuộc quyền kiểm soát của địch quân trong hai năm. Mãi đến năm 1968, lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh mới trở lại A Shau, một thiên đàng của địch.” (25)
Vào năm 1996, sau khi “tham khảo” với nhiều cơ quan chức năng của chánh phủ Việt Nam và các Ủy ban Nhân dân trước khi xúc tiến việc nghiên cứu tại chỗ, HCL đã tiến hành việc lấy mẩu thăm dò trong thung lũng A Shau. “Dữ kiện của chương trình 1996 cho thấy các mẩu đất và cá thu thập từ A Sô ở phía nam thung lũng A Lưới có chứa dioxin (đất: 33,3 pg/g và 112,6 pg/g TEQ; cá: 2,6 pg/g và 53,7 pg/g TEQ). Dữ kiện năm 1996 là nền tảng cho cuộc thăm dò chi tiết hơn trong năm 1997 ở A Sô và một căn cứ không quân nhỏ của lực lượng đặc biệt Mỹ ở trong vùng… Giống như cuộc thăm dò năm 1996, đất ở căn cứ cũ của Mỹ có nồng độ dioxin cao nhất (92,2 pg/g và 901,2 pg/g TEQ); hợp chất 2,3,7,8-T4CDD chiếm đến 96% và 99,6% Tổng TEQs của các mẩu nầy. Dữ kiện nầy cho thấy nguồn gốc của 2,3,7,8-T4CDD thì có liên quan đến chất da cam, vì hợp chất nầy là chất ô nhiễm chánh của chất da cam hiện diện trong loại thuốc diệt cỏ 2,4,5-T [2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid], một thành phần của hỗn hợp chất da cam .” (2)
Phi đạo A Lưới năm 1969 (Ảnh: Raz Reed) (27)
Phi đạo Tà Bạt năm 1969 (Ảnh: Larry Wagoner) (28)
Trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau và phi đạo năm 1969
(Ảnh: Larry Wagoner) (28)
Năm 1999, HCL lại tiến hành một cuộc thăm dò khác bao gồm toàn thể thung lũng A Shau với trọng tâm là trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau. “Nói chung, nồng độ dioxin trong các mẩu đất thu thập khắp nơi trong thung lũng A Lưới thì thấp hơn rất nhiều so với các mẩu đất ở căn cứ A Sô cũ. Trung tâm của các hoạt động quân sự qui mô (đó là các trại lực lượng đặc biệt) có nồng độ TCDD cao nhất… Như được ghi nhận trong các cuộc thăm dò trước đây, các mẩu đất lấy ở trại Lực lượng Ðặc biệt Mỹ ở A Sô có nồng độ TCDD cao nhất (220 pg/g - 360 pg/g; Bảng 2.3)… Khu vực phía bắc của căn cứ A Sô có mức độ TCDD cao nhất. Mức độ [dioxin] giảm dần về phía nam của căn cứ. Trị số TCDD năm 1999 ở căn cứ A Sô thì thấp hơn trị số năm 1997 (895,85 pg/g, Hình 2.6), cho thấy mức biến thiên rất cao của nồng độ trong phạm vi căn cứ… Sự biến đổi của nồng độ TCDD trong đất ở gần căn cứ A Sô (1996, 1997 và 1999) cho thấy nhiều khu vực của căn cứ bị ô nhiễm cao, và ở một vài nơi [nồng độ dioxin trong đất] có lẽ vượt quá trị số được báo cáo trong phúc trình.” (29) Nhưng nồng độ trong đất chỉ thay đổi từ 26 đến 46 ppt Tổng TEQs ở vùng trung tâm và từ 4,9 đến 16 ppt Tổng TEQs ở vùng phía nam của căn cứ. Hai trại lực lượng đặc biệt còn lại trong thung lũng A Shau cũng được HCL thăm dò, nhưng nồng độ dioxin trong đất thì thấp hơn rất nhiều. Các nồng độ nầy thay đổi từ 5,5 đến 37 ppt Tổng TEQs ở trại Lực lượng Ðặc biệt Tà Bạt và từ 5,7 đến 20 ppt Tổng TEQs ở trại Lực lượng Ðặc biệt A Lưới (29).
Căn cứ Không quân Ðà Nẳng
Mặc dù Căn cứ Không quân Ðà Nẳng được HCL và Ủy ban 10-80 xác nhận là một trong những điểm nóng dioxin ở Việt Nam và được MOU và Ford Foundation chọn để nghiên cứu thêm, dữ kiện và tin tức liên quan đến ô nhiễm dioxin ở đây thì không có bao nhiêu. Không có một vụ rò rỉ hay đổ tháo thuốc khai quang nào được báo cáo, ngoại trừ những thiệt hại được phổ biến trong năm 1968.
Vào năm 2003, trong một cuộc điều tra được xem là một phần của “Kế hoạch nghiên cứu dioxin cấp nhà nước để tìm hiểu hậu quả của chất độc hóa học do Quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Chiến dịch Ranch hand từ 1961-1971) (NDRP),” hai mẩu đất được thu thập để phân tích các hợp chất polychlorinated dibenzo dioxins (PCDDs) và polychlorinated dibenzo furans (PCDFs). “Vì các biện pháp an ninh chúng tôi không thể thực hiện việc lấy mẩu bên trong sân bay, do đó chúng tôi chọn địa điểm lấy mẩu bên ngoài sân bay ở gần đường bay, nơi chất thải từ máy báy được liệng ra ngoài sau các chuyến bay trong thời chiến tranh [?].” (30)
Vị trí lấy mẩu ở vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng năm 2003 (30)
Nồng độ trong đất đo được 4,5 ppt Tổng TEQs ở địa điểm gần sân bay và 4,1 ppt Tổng TEQs ở địa điểm kia. “Ðiều nầy hợp lý, vì như chúng tôi đã nói ở trên, địa điểm DN1 ở gần sân bay và là nơi chứa rác của sân bay trong thời gian qua… Tuy nhiên, dựa theo dữ kiện trong bảng 5.4, phần lớn Tổng TEQ của địa điểm DN2 là do OCDD [octa-chlorodibenzo-p-dioxin] và 1,2,3,4,6,7,8-HpCDD – các hợp chất được xem là ít độc (với TEFs bằng 0,01 và 0,001). Các hợp chất nầy có lẽ phát xuất từ những nguồn ô nhiễm khác chẳng hạn như tro khi đốt thuốc khai quang phế thải [?].” (30) Cũng cần nên biết nồng độ TCDD trong đất ở địa điểm DN2 là 0,2 ppt.
Nồng độ trong đất cũng được biết đến qua nhiều bài viết và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết về các nồng độ nầy thì không được cung cấp. Theo HCL, nồng độ dioxin của 21 mẩu đất thu thập trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng trong tháng 3 năm 2005 thay đổi từ dưới 1 ppt đến 269 ppt Tổng TEQs với nồng độ TCDD cao nhất là 227 ppt (6). Theo Ủy ban 33, Căn cứ Không quân Ðà Nẳng là điểm nóng “nóng nhất,” với 85.000 m3 đất ô nhiễm có nồng độ trung bình là 10.000 ppt Tổng TEQs (31).
Rừng Mã Ðà
Rừng Mã Ðà là địa điểm thứ hai được MOU chọn để nghiên cứu thêm. “Trước năm 1975, Mã Ðà được gọi là Chiến khu D – là một căn cứ của Quân đội [Nhân dân] Việt Nam trong thời chiến tranh Việt-Mỹ. Vùng nầy chịu ảnh hưởng nặng nề của chất độc hóa học và vũ khí giết người. Trong thời gian 1964-1969, thuốc khai quang được phun ở Chiến khu D để phá hủy rừng ở địa phương (Trung, T.V. 1982). Rừng dọc theo đường 322, từ sông Ðồng Nai đến suối Mã Ðà (35 km) hầu như bị phá hủy hoàn toàn vì bị phun thuốc khai quang nhiều lần. Diện tích rừng bị thiệt hại lên đến khoảng 3.000 ha. Vào năm 1975 (sau khi Việt Nam được độc lập), Lâm trường Mã Ðà (MAYs) được thành lập để khai thác gỗ cho mục đích kinh tế. Một lần nữa, rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Vào năm 1982, sau một thời gian khai thác khá lâu, tài nguyên rừng hầu như kiệt quệ. Mục đích của MAYs là chuyển từ khai thác qua khôi phục rừng. Các hoạt động trồng rừng tập trung vào những loại gỗ có giá trị kinh tế cao chẳng hạn như Dipterocarpaceae, Hopea Odorata, v.v. để phục hồi tài nguyên rừng. Nhiều kỹ thuật tái tạo rừng được áp dụng để tăng gia sản lượng gỗ được ghi trong kế hoạch.” (30)
Vào năm 1997, HCL và Ủy ban 10-80 tiến hành một cuộc điều tra trong vùng phụ cận phi trường quân sự ở Rang Rang. Nồng độ trong đất thay đổi từ 2,37 đến 20,33 ppt Tổng TEQs, và nồng độ trong bùn thay đổi từ 2,64 to 7,93 ppt Tổng TEQs (29).
Trong cuộc điều tra 2003, “… chúng tôi thu thập tất cả 16 mẩu (10 ở sân bay Rang Rang, 3 ở suối Mã Ðà, và 3 trong rừng tự nhiên ở chung quanh). Vì không đủ thời giờ, chúng tôi chỉ phân tích 6 mẩu (3 mẩu được kiểm chứng bởi Carso Lab và 1 mẩu được phân tích bởi Carso Lab).” (30) Nồng độ trong đất ở sân bay Rang Rang thay đổi từ 1,9 đến 6,7 ppt Tổng TEQs. Nồng độ của mẩu đất lấy trong rừng tự nhiên là 1,3 ppt Tổng TEQs. Nồng độ của mẩu bùn lấy ở suối Mã Ðà là 2,7 ppt Tổng TEQs.
Căn cứ Không quân Biên Hòa
Vào năm 1999, 4 mẩu đất được lấy từ “Căn cứ Không quân Biên Hòa, là nơi tàng trữ chất da cam trước kia” (32). Nồng độ trong đất của các mẩu nầy được báo cáo là 0,04; 1.063; 610.874; and 1.180.737 ppt Tổng TEQs. Các mẩu đất nầy được cho biết là do cố Giáo sư Lê Cao Ðài thu thập (33), nhưng không một ai biết vị trí chính xác của chúng cả (34).
Các vị trí lấy mẩu ở Căn cứ Không quân Biên Hòa
Năm 2004, Căn cứ Không quân Biên Hòa lại được lấy mẩu trong kế hoạch NDRP, nhưng “cho đến nay, Căn cứ Không quân Biên Hòa vẫn chịu sự quản lý của Quân đội Nhân dân, do đó việc lấy mẩu ở đó cực kỳ khó khăn (thật vậy, việc lấy mẩu chánh thức bị cấm). Với sự trợ giúp của một cán bộ thuộc Sở Môi trường tỉnh Ðồng Nai, chúng tôi được vào khu vực gần đài ra đa của sân bay để lấy mẩu (06/2004). Vào lúc đó, những hoạt động xây dựng bên trong khu vực rất khẩn trương nhằm mục đích biến nơi nầy thành khu gia cư (cho gia đình binh sĩ).” (30) Nhưng vị trí lấy mẩu, như được ghi trên “Bản đồ lấy mẩu ở Căn cứ Không quân Biên Hòa và hồ Biên Hùng - Tỉnh Ðồng Nai,” (chấm màu xanh) thì không phù hợp với các tọa độ cung cấp trong luận án (chấm màu vàng). Tám mẩu đất lấy ở địa điểm phía bắc có nồng độ thay đổi từ 4,5 đến 134,7 ppt Tổng TEQs. Kết quả phân tích cho thấy TCDD không hiện diện trong mẩu có nồng độ 4,5 ppt, nhưng nồng độ của OCDD rất cao, từ 384,3 đến 44.972,8 ppt. 1,2,3,4,6,7,8-HpCDD và OCDF (octachlorodibenzofurans) cũng hiện diện nhưng ở mức thấp hơn. Nồng độ của 2 mẩu đất lấy ở địa điểm phía nam là 43,7 và 148,8 ppt Tổng TEQs.
Nồng độ trong đất cũng được biết đến qua nhiều bài viết và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết về các nồng độ nầy thì không được cung cấp. Theo HCL, nồng độ dioxin của 24 mẩu đất và bùn thu thập trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Biên Hòa trong tháng 3 năm 2005 thay đổi từ 1,19 to 833 ppt Tổng TEQs với nồng độ TCDD cao nhất là 797 ppt (6). Theo Ủy ban 33, Căn cứ Không quân Biên Hòa là điểm nóng “nóng thứ hai,” với 90.000 m3 đất ô nhiễm có nồng độ trung bình là 6.000 ppt Tổng TEQs (31).
TỪ LÝ THUYẾT ÐẾN THỰC TẾ:
MỘT KHOẢNG TRỐNG BAO LA
Dữ kiện và tin tức hiện có dường như không biện minh cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá trị của thuyết nầy được thảo luận dưới đây.
Nguồn gốc mơ hồ của TCDD
HCL suy đoán rằng TCDD tìm thấy ở các điểm nóng là TCDD ở trong thuốc diệt cỏ da cam được dùng trong chiến tranh Việt Nam. “Giống như cuộc thăm dò năm 1996, đất ở căn cứ cũ của Mỹ có mức độ dioxin cao nhất (92,2 pg/g và 901,2 pg/g TEQ); hợp chất 2,3,7,8-T4CDD chiếm đến 96% và 99,6% Tổng TEQs của các mẩu nầy. Dữ kiện nầy cho thấy nguồn gốc của 2,3,7,8-T4CDD thì có liên quan đến chất da cam, vì hợp chất nầy là chất ô nhiễm chánh của chất da cam hiện diện trong loại thuốc diệt cỏ 2,4,5-T [2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid], một thành phần của hỗn hợp chất da cam .” (2) Nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy TCDD có thể phát xuất từ nhiều nguồn gốc khác.
Quả thật là TCDD chiếm 96% và 99,6% Tổng TEQs của hai mẩu đó, nhưng các hợp chất họ dioxin PCDDs/PCDFs cũng hiện diện ở mức độ rất cao, đặc biệt là OCDD. Nồng độ OCDD trong hai mẩu đất nầy lên đến 697,05 và 563,84 ppt. Các hợp chất nầy chắc chắn phát xuất từ các nguồn gốc khác, và các nguồn nầy rất có thể cũng chứa TCDD. Theo Hàn lâm viện Y khoa (Institute of Medicine) của Hoa Kỳ, “phần lớn dioxins và furans trong môi trường phát xuất từ sự thiêu đốt (combustion) (Zook and Rappe, 1994, như đã trích dẫn trong ATSDR, 1998). Những tiến trình thiêu đốt bao gồm việc thiêu đốt rác (waste incineration) (chẳng hạn như rác đô thị, bùn nước cống (sewage sludge), rác y tế, và rác độc hại (hazardous waste)), đốt các loại nhiên liệu (chẳng hạn như than, gỗ, và sản phẩm dầu hỏa), các nguồn có nhiệt độ cao (chẳng hạn như lò nung xi măng), các nguồn thiêu đốt không trọn vẹn hoặc thiếu kiểm soát (chẳng hạn như cháy rừng, núi lửa, và đốt củi) (Clement et al., 1985; EPA, 2000; Thoma, 1988; Zook and Rappe, 1994, như đã trích dẫn trong ATSDR, 1998).” (35)
Trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau, thiêu đốt sản phẩm dầu hỏa, cháy rừng, cháy doanh trại, và đốt củi có thể là những nguồn TCDD. Việc thiêu đốt sản phẩm dầu hỏa đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam. “Ðể dọn bãi đáp ở những nơi có cây thấp và bụi rậm, Ban Hóa học của Sư đoàn hiện đang dùng máy bay [trực thăng] UH-1 để thả 3 thùng 55-gallon chứa đầy dầu đặc (thickened fuel). Các thùng nầy được đặt trong lưới chở hàng cũ và móc bên ngoài máy bay bằng dây. Tất cả được thả từ cao độ 250 feet ở vận tốc 0 và được châm ngòi bằng lựu đạn khói thả từ máy bay. Một vùng có đường kính khoảng 25 m bị cháy rụi.” (36)
Một nguồn TCDD khác trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau là pentachlorophenol (PCP), từng được dùng làm thuốc chống mối mọt cho căn cứ trong thời chiến tranh (37). PCP cũng có thể hiện diện trong hóa chất dùng trong nông nghiệp hiện nay. Ðiểm suy luận nầy dường như được kiểm chứng bằng nồng độ OCDD cao nhất (1.700 ppt) trong các mẩu đất lấy ở một cánh đồng ở xã Hồng Vân năm 1996. Nồng độ rất cao của OCDD đã được kiểm chứng trong cuộc điều tra năm 1999. “Trong thung lũng A Lưới, nồng độ cao nhất của octa-dioxins (O8CDD [OCDD]) được tìm thấy trong những vùng có cư dân và đốt rác phổ biến (chẳng hạn như ở xã Hồng Thương, 2.200 pg/g Tổng O8CDD; chợ Bò Ðót, 1.100 pg/g Tổng O8CDD; xã Sơn Thủy, 1.800 pg/g và 1.100 pg/g Tổng O8CDD; Bảng 2.3).” (29)
Tiêu chuẩn đất tùy tiện
Tiêu chuẩn được dùng để xác định độ “nóng” của “thuyết điểm nóng Hatfield” có lẽ là yếu tố quan trọng đáng nghi ngờ nhất. Dường như HCL đang cố sức để biện minh cho lý thuyết của mình.
Lúc ban đầu, HCL dùng tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của BC, thay vì dùng mục tiêu điều trị tạm thời của EPA hay mức hành động của ATSDR, là 1.000 ppt Tổng TEQs, để khẳng định trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau là một điểm nóng dioxin, có lẽ vì nồng độ trong đất cao nhất ở căn cứ nầy thấp hơn 1.000 ppt Tổng TEQs. HCL giải thích cho việc chọn tiêu chuẩn cao hơn như sau: “Tuy nhiên, các mức tác hại (thresholds) của PCDD and PCDF được áp dụng ở phương tây không đủ thận trọng (conservative) để bảo vệ sức khỏe con người ở vùng nông thôn Việt Nam. Tình trạng kinh tế xã hội ở thôn xã, có rất nhiều nhà nền đất, người lớn và trẻ con không mang giày dép, sự liên hệ mật thiết với đất canh tác, và điều kiện vệ sinh chung khiến họ tiếp xúc với chất ô nhiễm nhiều hơn. Do đó, hướng dẫn và tiêu chuẩn phải cao hơn trong môi trường như vậy.” (3) Nhưng tiêu chuẩn BC và mục tiêu điều trị tạm thời của EPA hay mức hành động của ATSDR được dựa trên sự tiêu hóa trực tiếp đất ô nhiễm (direct ingestion of contaminated soil); do đó, lời giải thích nầy có vẻ không thích hợp.
Dữ kiện đất được HCL dùng để xác định các điểm nóng ở các căn cứ quân sự (6)
Mới đây, HCL lại hạ tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của họ xuống còn 190 ppt TCDD. Lý do của sự thay đổi nầy không được trình bày, nhưng nó là “tiêu chuẩn” mà HCL cần phải có để cho các căn cứ không quân Ðà Nẳng, Phù Cát, và Tân Sơn Nhứt được lọt vào danh sách những điểm nóng dioxin của họ, bởi vì nồng độ của dioxin trong đất/bùn ở các căn cứ nầy (269, 201, và 341 ppt Tổng TEQs (6)) thấp hơn tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của BC.
Dù sao đi nữa, việc áp dụng tiêu chuẩn của BC dùng cho đất nông nghiệp, thổ cư và công viên để xác định các căn cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ là những điểm nóng dioxin thì không thích hợp về mặt kỹ thuật, nhất là đối với các căn cứ không quân Biên Hòa, Ðà Nẳng, Phù Cát và Tân Sơn Nhứt. Mục tiêu điều trị tạm thời của EPA dùng cho các khu thương mãi/kỹ nghệ (từ 5.000 đến 20.000 ppt Tổng TEQs) có vẻ thích hợp hơn.
Dữ kiện đất đáng nghi ngờ
Dữ kiện đất được HCL dùng để biện minh cho thuyết điểm nóng của họ dường như không đáng tin, không phù hợp, và không đầy đủ. Thật vậy, “thuyết điểm nóng Hatfield” dường như chỉ dựa trên một dữ kiện thực địa duy nhứt ở trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau (đó là nồng độ 901,2 ppt Tổng TEQs trong năm 1997). Nhưng dữ kiện nầy cũng không được kiểm chứng trong cuộc điều tra năm 1999, một cuộc điều tra được quy hoạch cẩn thận “…để khảo sát kỷ hơn phạm vi của những vấn đề có liên quan đến chất da cam trong thung lũng A Lưới.” (29) Vấn đề nghiêm trọng nhất đối với dữ kiện đất do HCL thu thập chính là sự vắng mặt “khó hiểu” của những địa điểm lấy mẩu. Thật vậy, vị trí chính xác của những mẩu đất/bùn do HCL thu thập trong các cuộc điều tra trong các năm 1996, 1997, và 1999 chưa hề được công bố (2, 29).
Dữ kiện đất được HCL dùng để xác định các “điểm nóng” khác cũng không khá hơn. “Các căn cứ Ranch Hand ở Biên Hòa và Ðà Nẳng là những thí dụ điển hình của các điểm nóng quan trọng. Một nồng độ TCDD trong đất ở Biên Hòa [không rõ vị trí] được ghi nhận lên đến 1,2 triệu phần ức (ppt) (Schecter et al., 2001). Tin tức mật do các khoa học gia Việt Nam cung cấp cho thấy mức độ dioxin trong đất ở Ðà Nẳng [không rõ vị trí] có thể lên đến vài trăm ngàn ppt.” (5)
Ở nơi nào không có dữ kiện tại chỗ (on-site soil data), HCL dùng dữ kiện đất “…được thu thập ở các địa điểm lấy mẩu ở gần mỗi căn cứ [!?]” để xác định các điểm nóng dioxin. “Các căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Ðà Nẳng, Phù Cát, và Biên Hòa có thể được xem như là những ‘điểm nóng’ dioxin quan trọng dựa trên nồng độ TCDD ghi nhận được trong vùng ‘hạ lưu’ của các địa điểm tình nghi là khu vực Ranch Hand. Các ‘địa điểm tình nghi chủ yếu’ nầy chưa được thử nghiệm trực tiếp trong nghiên cứu của chúng tôi vì không được phép của chánh quyền Việt Nam. Tuy nhiên, những trị số TCDD rất cao (Bảng 1) cho thấy sự quan hệ chặt chẽ của thuốc diệt cỏ da cam với mức độc hại tổng quát của các mẩu đất/bùn nầy, bởi vì TCDD là đặc tính của hợp chất dioxin có trong chất da cam.” (6)
Hơn thế nữa, dữ kiện đất được trình bày trong Bảng 1 rất đáng nghi ngờ vì nó không phù hợp với dữ kiện đã biết. Thí dụ như nồng độ trong đất ở Căn cứ Không quân Ðà Nẳng (<1-269 ppt Tổng TEQs) thì không phù hợp với kết quả thu thập trong năm 2003 (4,1 và 4,5 ppt Tổng TEQs), với tin tức mật của các khoa học gia Việt Nam (vài trăm ngàn ppt), và với trị số của Ủy ban 33 (10.000 ppt Tổng TEQs). Chi tiết của dữ kiện đất được ghi trong Bảng 1, kể cả bản đồ vị trí lấy mẩu, đã không được cung cấp mặc dù các vị trí nầy không nằm bên trong khu quân sự.
TÓM TẮT, KẾT LUẬN VÀ
ÐỀ NGHỊ
Năm 1998, HCL công bố cái gọi là “thuyết điểm nóng Hatfield” sau khi dioxin được tìm thấy ở nồng độ tương đối cao (901,2 ppt Tổng TEQs) trong một mẩu đất thu thập trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau cũ trong năm 1997. “Thuyết điểm nóng Hatfield,” được dùng làm “khuôn mẫu cho tình trạng ô nhiễm [TCDD] ở khắp miền Nam Việt Nam,” (6) cho rằng tất cả các căn cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ (căn cứ không quân, căn cứ hỏa lực, căn cứ hải quân, v.v.) ở miền Nam Việt Nam có thể được xem là các điểm nóng dioxin, đặc biệt là các căn cứ không quân chánh yếu như Tân Sơn Nhứt, Biên Hòa, và Ðà Nẳng, nơi một số lượng lớn thuốc diệt cỏ được vận chuyển, tồn trữ, và sử dụng. Mặc dù mức độ ô nhiễm dioxin trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau không được kiểm chứng qua cuộc điều tra bổ túc năm 1999, HCL vẫn duy trì lý thuyết của họ vì “căn cứ có thể ‘nóng’” mặc dù “’các địa điểm ô nhiễm chủ yếu’ chưa được xác định hoặc thử nghiệm [!]” và vì HCL đã “ấn định lại” tiêu chuẩn đất, chỉ còn 190 ppt TCDD (6).
Lạm dụng hóa chất nông nghiệp (39)
Tuy nhiên, dữ kiện và tin tức hiện có đường như không biện minh cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” HCL cho rằng TCDD ở Việt Nam phát xuất từ thuốc diệt cỏ (tức là chất da cam) được dùng trong chiến tranh Việt Nam; nhưng dữ kiện và tin tức mới nhất cho thấy TCDD có thể do các hóa chất nông nghiệp có chứa PCP hay do tiến trình thiêu đốt, nhất là việc thiêu đốt rác đô thị. Thật vậy, các mẩu tro thu thập trong năm 2003 từ một lò đốt rác y tế ở thành phố Hồ Chí Minh và các lò đốt rác đô thị ở Bình Hưng Hòa, thành phố Hồ Chí Minh và ở Phú Hòa, thành phố Vũng Tàu có nồng độ dioxins (số nhiều) thay đổi từ 184 ppt Tổng TEQs (trong đó có 6 ppt TCDD) đến 12.328 ppt Tổng TEQs (trong đó có 53 ppt TCDD) (30).
Thiêu đốt bừa bãi tại một nhà máy ở Củ Chi (40)
HCL dùng tiêu chuẩn đất 190 ppt TCDD do chính mình đặt ra để làm căn bản cho lý thuyết. Tiêu chuẩn nầy có vẻ “nguội” khi so sánh với 1.000 ppt Tổng TEQs của mục tiêu điều trị tạm thời của EPA và mức hành động của ATSDR dùng cho đất thổ cư, và có vẻ “lạnh” khi so sánh với 5.000-20.000 ppt Tổng TEQs của mục tiêu điều trị tạm thời của EPA và mức hành động của ATSDR dùng cho đất thương mãi/kỹ nghệ. Cho dù dữ kiện của HCL được xem là đáng tin cậy, không có một căn cứ không quân nào mà HCL đã tình nghi và điều tra có thể được xem như là một điểm nóng dioxin, nếu mục tiêu điều trị tạm thời của EPA và mức hành động của ATSDR (1.000 ppt Tổng TEQs) được dùng làm tiêu chuẩn đất.
Có một địa điểm có thể có khả năng biện minh cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” Ðó là Tân cảng Sài Gòn, nơi mà hàng ngàn thùng 55-gallon đựng thuốc khai quang đã bị hư hại trong đợt Tổng công kích Tết Mậu Thân giai đoạn 2 vào tháng 5 năm 1968. Hàng chục ngàn gallons chất da cam có thể đã đổ tháo trên mặt đất. Mặc dù tai nạn đổ tháo thuốc khai quang nầy không được điều tra, Tân cảng Sài Gòn có lẽ không được ghi trong danh sách điểm nóng của Hatfield vì không có một thiệt hại hay ảnh hưởng nào được khai báo, mặc dù nó ở rất gần vùng đông dân cư nhất.
Dựa theo dữ kiện và tin tức mới nhất, chúng ta có thể kết luận rằng các
điểm nóng TCDD hay “các vấn đề dioxin,” theo lý thuyết của Hatfield
Consultants Ltd., có thể không hiện hữu ở Việt Nam. Nhưng Việt Nam có
lẽ đang đối diện với các vấn đề do PCDDs/PCDFs gây ra: “các vấn đề
dioxins.” Các hợp chất họ dioxin nầy không bắt nguồn từ chất da cam.
Các vấn đề dioxins nghiêm trọng hơn và càng ngày càng tồi tệ hơn. Thật vậy,
TCDD không tìm thấy trong một mẩu đất lấy ở Biên Hòa trong năm 2004,
nhưng PCDDs/PCDFs được tìm thấy ở nồng độ 121,5 ppt Tổng TEQs.
Trong một mẩu khác, TCDD được tìm thấy ở nồng độ 27,9 ppt trong khi PCDDs/PCDFs có nồng độ 548,5 ppt Tổng TEQs. Ðứng về mặt khoa học mà
nói, “các vấn đề dioxins” hiện nay ở Việt Nam cần phải được chú ý và cứu xét
nghiêm chỉnh hơn “các vấn đề dioxin,” trên bình diện quốc gia và quốc tế.
Mới đây, HCL được Ủy ban 33 yêu cầu thực hiện hai nghiên cứu cho một “điểm nóng” ở phi trường Ðà Nẳng. Các nghiên cứu nầy được Ford Foundation tài trợ. Mục đích của nghiên cứu thứ nhất, với ngân khoản 120.000 đô la Mỹ, là “nghiên cứu đặc tính di chuyển của một ‘điểm nóng’ dioxin ở phi trường Ðà Nẳng, lượng định các trường hợp tiếp nhiễm và đề nghị các biện pháp khắc phục khả thi.” Nghiên cứu thứ nhì, với ngân khoản 342.800 đô la Mỹ, để “lượng định ảnh hưởng đối với sức khỏe công cộng qua đất và dây chuyền thực phẩm ở một ‘điểm nóng’ dioxin ở phi trường Ðà Nẳng và đề nghị các biện pháp khắc phục ngay lập tức.” (38) Tuy nhiên, cái “điểm nóng” của hai nghiên cứu nầy dường như không hiện hữu vì dữ kiện và tin tức hiện có cho thấy nồng độ dioxin trong đất ở Căn cứ Không quân Ðà Nẳng hoặc chưa biết (chưa thử nghiệm bên trong căn cứ) hoặc rất thấp (dưới 5 ppt Tổng TEQs ở sát bên ngoài căn cứ (30)). Vì lý do đó, một chương trình công tác (work plan) phải được soạn thảo và công bố để lấy ý kiến một cách rộng rãi (trong nước và quốc tế) để xác định và định tính cái “điểm nóng” nầy. Kết quả định tính sẽ được dùng để xem hai nghiên cứu vừa nêu có cần thiết hay không.
Dựa theo dữ kiện và tin tức mới nhất, chúng ta có thể kết luận rằng các điểm nóng TCDD hay “các vấn đề dioxin,” mà HCL đã quan sát được trong suốt “hơn 12 năm nghiên cứu,” có thể không hiện hữu ở Việt Nam hiện nay. Nhưng có lẽ Việt Nam đang phải đối diện với nhiều vấn đề do PCDDs/PCDFs gây ra: “các vấn đề dioxins.” Chúng là các hợp chất họ dioxin từ các nguồn ô nhiễm không phải là chất da cam. Các vấn đề dioxins nầy nghiêm trọng hơn và càng ngày càng tồi tệ hơn. Thật vậy, TCDD không được tìm thấy trong một mẩu bùn lấy ở hồ Biên Hùng trong năm 2004 (SSM9), nhưng PCDDs/PCDFs được tìm thấy với nồng độ 121,5 ppt Tổng TEQs. Trong một mẩu khác (SSM8), nồng độ TCDD chỉ có 27,9 ppt trong khi nồng độ của PCDDs/PCDFs lên đến 548,5 ppt Tổng TEQs (30). Ðứng về mặt khoa học mà nói, “các vấn đề dioxins” hiện nay ở Việt Nam cần phải được chú ý và cứu xét nghiêm chỉnh hơn “các vấn đề dioxin,” trên bình diện quốc gia và quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Memorandum of Understanding. Meeting of the Vietnamese and United States Delegations in Follow-Up to the Joint Vietnam-US Scientific Conference on Human Health and Environmental Effects of Agent Orange/Dioxin. March 10, 2002. Hanoi, Vietnam. http://www.niehs.nih.gov/external/usvcrp/mou31002.pdf .
(2) Hatfield Consultants Ltd. and Vietnam 10-80 Committee. 1998. Preliminary Assessment of Environmental Impacts Related to Spraying of Agent Orange Herbicide during the Vietnam War. Volume 1: Report, Volume 2: Appendices. West Vancouver, Canada.
(3) L. Wayne Dwernychuk, et al. 2002. “Dioxin reservoirs in southern Viet Nam – A legacy of Agent Orange.” Chemosphere 47, 117-137.
(4) L. Wayne Dwernychuk, et al. March 2002. “Agent Orange/Dioxin Hot Spots – A legacy of U.S. Military Bases in Southern Viet Nam.” Presented at the Joint US – Vietnam Scientific Conference on Human Health and Environmental Effects of Agent Orange/Dioxin. Hanoi, Vietnam.
(5) L. Wayne Dwernychuk. 2005. “Short Communication, Dioxin hot spots in Vietnam.” Chemosphere 60, 998-999.
(6) Dwernychuk, LW, et al. August 2006. “The Agent Orange Dioxin Issue in Viet Nam: A Manageable Problem.” Presented at the 26th International Symposium on Halogenated Persistent Organic Pollutants. Oslo, Norway.
(7) HCL. December 4, 2006. “Hatfield Awarded Ford Foundation Grant for Agent Orange Study.” http://www.hatfieldgroup.com
(8) British Columbia (BC) Waste Management Act. 1996. Waste Management Act – Contaminated Sites Legislation. BC Regulations 375/96. Canada.
(9) Buckingham, William A., Jr. 1982. Operation Ranch Hand. The Air Forces and Herbicides in Southeast Asia 1961-1971. US Air Force, Office of Air Force History. Washington, D.C.
(10) West, Keith W. March 24, 1970. “Memorandum for: Chief of Chemical Operations, MACV J3-09. Subject: Herbicide Storage at Bien Hoa AB.” 12th SOS. Bien Hoa, Vietnam.
(11) Michael, E.D. April 29, 1970. “Memorandum for Record. Subject: Effects of Herbicide Spills at Bien Hoa Air Base.” Pacific Technical Analysts-Subsidiary. San Francisco, California.
(12) Moran, John. 31 October 1968. “Memorandum for: 7th Air Force, TACC. Attn: Lct Robert McCollester. Subject: Herbicide Damage to Vegetable Plots Vicinity Da Nang Air Base.” Chemical Operations Division. MACJ3-09.
(13) Corey, Jim. 25 March 1969.”Defoliant Damage in Da Nang City.” CORDS/NLD/ICTZ.
(14) US Military Assistance Command, Vietnam. 15 September 1969. Vietnam Lessons Learned No. 74: Accidental Herbicide Damage. MACVJ3-053.
(15) Darrow, Robert A., Reed C. Bunker, and J. Ray Frank. 23 September 1969. “Report of Trip to Republic of Vietnam, 15 August-2 September 1969.” Department of the Army. Frederick, Maryland.
(16) Bills, Ray W. 26 September 1969. “Memorandum for: III MAF Chemical Officer (Cpt Lott). Subject: Report of Investigation into Possible Herbicide Damage at Vietnamese Naval Compound at Da Nang.” Chemical Operations Division. MACJ3-09.
(17) US Department of the Army. 15 October 1981. “MACV Fixed Wing Aircraft Herbicide Incidents.” Alexandria, Virginia.
(18) Le Moine, Thomas F. “Newport Terminal: A Historical Overview of a US Army Port Facility Operated by the 71st Transportation Battalion.” US Army. Fort Eustis, Virginia. http://www.allanfurtado.com/newportterminal.html
(19) McNaught, David. “Page 31. David McNaught. Some Photos I took In and Around Newport Terminal.” http://www.allanfurtado.com/davidmcnaughtnewport.html
(20) Farris, Gregory M. “Page 40. Photos from Gregory M. Farris.” http://www.allanfurtado.com/gregoryfarris.html
(21) Krabbenhoeft, Alfred. “Pages 17-19. Photos from Al Krabbenhoeft.” http://www.allanfurtado.com/alfredkrabbenhoeft.html
(22) Morawa, Richard Allen. “Pages 53-54. Photos from Rich Morawa.” http://www.allanfurtado.com/richmorawanewport.html
(23) Fields, Timothy, Jr. April 13, 1998. “Memorandum on Approach for Addressing Dioxin in Soil at CERCLA and RCRA sites.” Office of Solid Waste and Emergency Response. U.S. Environmental Protection Agency. Washington, D.C.
(24) De Rosa, Christopher T., et al. August 21, 1997. Dioxin and Dioxin-Like Compounds in Soil, Part 1: ATSDR Interim Policy Guideline. Agency for Toxic Substances and Disease Registry, U.S. Department of Health and Human Services. Atlanta, Georgia.
(25) Horvath, Richard L. Undated. “Mystique of the Valley, Fall 1968 Rendezvous with Destiny Magazine.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(26) Aton, Bert and William Thorndale. Undated. A Shau Campaign, December 1968 – May 1969. Directorate Tactical Evaluation. CHECO Division. US Department of Air Forces.
(27) Reed, Raz. “Photos, Articles, and Maps of the A Shau Valley, Page 20.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(28) Wagoner, Larry. “Photos, Articles, and Maps of the A Shau Valley, Pages 16-17.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(29) HCL and 10-80 Committee. April 2000. Development of Impact Mitigation Strategies Related to the Use of Agent Orange Herbicide in the Aluoi Valley, Vietnam. HCL, West Vancouver, Canada; 10-80 Committee, Ha Noi, Vietnam.
(30) Mai, Tuan Anh. 2006. Sources and Fate of PCDDs and PCDFs in Rural and Urban Ecosystems and Food Chain in Southern Vietnam. Thèse No. 3446 (2005). École Polytechnique Fédérale de Lausanne. Lausanne, Belgium.
(31) Lê, Huân. July 13, 2006. “Tư vấn sức khỏe sinh sản cho nạn nhân chất độc dioxin: Mỏi mòn chờ đợi.” Báo Lao Ðộng. Hà Nội, Việt Nam.
(32) Schecter, A., Le Cao Dai, Oaf Papke, Joelle Prange, John D. Constable, Muneaki Matsuda, Vu Duc Thao, and Amanda L. Piskac. May 2001. “Recent Dioxin Contamination from Agent Orange in Residents of a Southern Vietnam City.” Journal of Occupational and Environmental Medicine. Volume 43, Number 5.
(33) Huỳnh Văn Mỹ. June 24, 2001. “Người bạn của những nạn nhân da cam.” Báo Lao Ðộng. Hà Nội, Việt Nam.
(34) Mai, Truyet T. May 2004. “Letters to the Editor – Food as a Source of Dioxin Exposure in the Residents of Bien Hoa City, Vietnam – Schecter et al.” Journal of Occupational and environmental Medicine. Volume 46, Number 5.
(35) Institute of Medicine. 2003. Dioxins and Dioxin-like Compounds in the Food Supply: Strategies to Decrease Exposure. National Academy Press. Washington, D.C.
(36) Wickham, Kenneth G.. 9 December 1969. “Operational Report – Lessons Learned, Headquarters, 101st Airborne Division, Period Ending 31 July 1969 (U).” Department of the Army. Washington, D.C.
(37) Schecter, A.J., J.J. Ryan, M. Gross, N.C.A. Weerasinghe, and J.D. Constable. 1986. “Chlorinated dioxins and dibenzofurans in human tissues from Viet Nam, 1983-84.”. Chlorinated Dioxins and Dibenzofurans in Perspective. C. Rappe, G. Choudhary, and L.H. Keith [editors]. Lewis Publishers. Ann Arbor, Michigan.
(38) http://www.fordfound.org/grants_db/view_grant_detail.cfm?grant_id=39336
(39) Ðỗ, Anh H. October 5, 2006. “Cẩn thận với thuốc trừ sâu.” Báo Sài Gòn Giải Phóng. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
(40) Quang Ðạt. November 31, 2006. “Xung quanh khu công nghiệp Tân Quy - Ðất, nước và không khí đều ô nhiễm.” Báo Sài Gòn Giải Phóng. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
http://anhduong.net/binhluan/Jun07/NMQ_DiemNongDioxinOVietNam.htm
(Ảnh: Larry Wagoner - 1969)
“ÐIỂM NÓNG” DIOXIN Ở VIỆT NAM: TỪ LÝ THUYẾT ÐẾN THỰC TẾ
Nguyễn Minh Quang, P.E.
Tháng 1 năm 2007
PHẦN MỞ ÐẦU
Tiếp theo sau Hội nghị Khoa học Hỗn hợp Việt-Mỹ về Ảnh hưởng của Chất da cam/dioxin lên Sức khỏe và Môi trường, được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam từ ngày 3 đến 6 tháng 3 năm 2002, đại diện của hai chánh phủ đã đạt đến thỏa thuận về những công tác nghiên cứu trong tương lai, được ghi trong biên bản ghi nhớ (memorandum of understanding (MOU)) ký kết ngày 10 tháng 3 năm 2002. Những công tác nầy bao gồm việc nghiên cứu trực tiếp ảnh hưởng của việc tiếp xúc với dioxin đối với sức khỏe con người và ảnh hưởng của chất da cam/dioxin đối với môi trường và hệ sinh thái. Việc nghiên cứu sẽ ưu tiên nhắm vào dân số đang tiếp xúc nhiều với dioxin, chẳng hạn như sinh sống gần các “điểm nóng,” và nhắm vào việc xác định, định tính (characterization), và điều trị (remediation) các “điểm nóng.”
Theo biên bản ghi nhớ, “điểm nóng” là những nơi có mức độ dioxin ở trong đất cao. Một vài nơi đã được xác định, còn những nơi khác được xem như là hiện hữu, nhưng vị trí của chúng chưa được xác định. Hai nghiên cứu được thỏa thuận để tiến hành bao gồm việc nghiên cứu hệ sinh thái và phục hồi rừng suy thoái, chẳng hạn như rừng Mã Ðà, và việc nghiên cứu để xác định, định tính, và điều trị những điểm nóng, chẳng hạn như phi trường Ðà Nẳng (1). Hai địa điểm nầy do các khoa học gia Việt Nam đề nghị.
Ðại diện hai chánh phủ tại Hội nghị ở Hà Nội năm 2002
Ðây không phải là lần đầu tiên những “điểm nóng” dioxin ở Việt Nam được đề cập đến. Chúng đã được công bố vào năm 1998 sau các nghiên cứu hỗn hợp giữa Hatfield Consultants Ltd. ở West Vancouver, Canada (HCL) và Ủy ban quốc gia điều tra về hậu quả chất độc hóa học dùng trong chiến tranh Việt Nam (Ủy ban 10-80) để xác định mức độ dioxin trong môi trường Việt Nam (2). Chúng là tiêu điểm của cái gọi là “thuyết điểm nóng Hatfield” và là chủ đề của nhiều phúc trình và bài viết do HCL biên soạn (3-6). Có lẽ vì lý do đó, HCL đã được Ủy ban quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Ủy ban 33) của chánh phủ Việt Nam mướn để nghiên cứu “... nhằm ngăn chận dioxin lan rộng chung quanh phi trường Ðà Nẳng, và đánh giá khả năng bảo vệ sức khỏe của người dân sinh sống trong vùng phụ cận.” (7) Các nghiên cứu nầy do Ford Foundation tài trợ.
Những “điểm nóng” dioxin có thật sự hiện hữu ở Việt Nam hiện nay hay không? Nếu có, chúng “nóng” đến mức độ nào? Bài viết nầy nhằm mục đích trả lời hai câu hỏi đó.
THUYẾT ÐIỂM NÓNG
HATFIELD
Theo HCL, tất cả các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được xem như là (theorized) những điểm nóng dioxin ở Việt Nam. Thuyết nầy dường như được hình thành sau khi 2,3,7,8-trichlorodibenzo-p-dioxin (dioxin, TCDD, hoặc T4CDD) được tìm thấy trong một mẩu đất lấy ở trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau năm 1997. Mẩu đất có nồng độ 901,2 phần ức (parts per trillion (ppt)) Tổng TEQs (Total Toxicity Equivalents), vượt quá 350 ppt Tổng TEQs, là tiêu chuẩn để bảo vệ sức khỏe con người cho đất nông nghiệp, thổ cư, và công viên ở Canada (8). Mặc dù nồng độ dioxin trong các mẩu đất lấy ở cùng vị trí trong năm 1999 không vượt quá 350 ppt Tổng TEQs, HCL vẫn duy trì thuyết điểm nóng vì “... cho dù một căn cứ được xem là không ô nhiễm nghiêm trọng, căn cứ đó vẫn có thể ‘nóng’ nếu vị trí chính xác của các khu vực Ranch Hand được xác định và phân tích.” (6)
Tổng TEQs được dùng để đánh giá nguy cơ của việc tiếp xúc với một hỗn hợp (combination) bao gồm các hợp chất họ dioxin (dioxin-like compounds). Nó là tích số của nồng độ của từng hợp chất họ dioxin, Ci, với hệ số độc tố tương đương với dioxin, TEFi (TCDD toxicity equivalency factor), cho hợp chất đó. Tổng TEQs là tổng số của mỗi TEQs của từng hợp chất:
Tổng
Hatfield Consultants Ltd. cho rằng hình thức ô nhiễm TCDD quan sát trong thung lũng A Lưới [nồng độ trong đất vượt quá tiêu chuẩn 350 ppt TEQs của British Columbia (Canada)] là khuôn mẫu cho tình trạng ô nhiễm ở khắp miền Nam Việt Nam, nơi có vô số bồn chứa TCDD hiện hữu trong đất ở các căn cứ quân sự cũ của Mỹ.
“Trong nghiên cứu của chúng tôi, các căn cứ quân sự được xem là các điểm nóng dioxin dựa trên mức độ dioxin của mẩu đất lấy từ các địa điểm ở gần mỗi căn cứ. Như đã trình bày, các điểm ô nhiễm ‘chính’ thì chưa được xác định/phân tích; do đó, dù một căn cứ được xem như không ô nhiễm nghiêm trọng, căn cứ đó vẫn có thể ‘nóng’ nếu vị trí chính xác của khu vực Ranch Hand được xác định và phân tích.
Một căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở Việt Nam không được xếp vào loại ‘nóng’ không có nghĩa là nó không bị ô nhiễm; nó chỉ có nghĩa là ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xác định vì thiếu dữ kiện (trong nghiên cứu nầy, nghiêm trọng được định nghĩa là ≥ 190 pg/g [ppt] TCDD).”
“Thuyết điểm nóng Hatfield” được trình bày khá chi tiết trong nhiều bài viết chuyên môn của HCL. “Những địa điểm có mức độ dioxin trong đất cao có thể gọi là ‘điểm nóng’ chất da cam/dioxin. Chúng tôi chọn đất, một bộ phận của môi trường ở thung lũng A Lưới, như là một yếu tố để xác định các điểm nóng. Nếu ô nhiễm đất ở thung lũng là tiền đề của ô nhiễm thực phẩm và con người hiện nay, thì đất phải được dùng như là yếu tố chính yếu trong việc xác định một điểm nóng.” (4)
“Các điểm nóng xác định bởi Hatfield đang hiện diện, đó là đất có mức độ TCDD rất cao vì tiếp nhận nhiều TCDD hơn trong thời gian chiến tranh. Ðiều quan trọng là những điểm nóng Hatfield không phải là vùng rừng rậm bạt ngàn, mục tiêu của các phi vụ thường xuyên của Chiến dịch Ranch Hand, ám số của chương trình phun thuốc khai quang của Quân đội Mỹ... Những điểm nóng hiện nay là đất nơi chất da cam bị rò rỉ, được xịt từ bồn chứa gắn trên xe, kể cả việc phun thuốc chung quanh các căn cứ, v.v., cho nên đất ở đây có mức tiếp nhận dioxin nhiều hơn so với đất ở vùng bị phun thuốc từ trên không. Nồng độ TCDD cao nhất được tìm thấy trong các mẩu đất lấy ở trại gia binh bên trong một căn cứ cũ của lực lượng đặc biệt Mỹ ở thung lũng A Lưới (Dwernychuk et al., 2002). Hai căn cứ khác trong thung lũng, được sử dụng trong một thời gian ngắn hơn, cũng có mức độ TCDD trong đất cao hơn những vùng bị phun thuốc từ trên không... Các căn cứ Ranch Hand ở Biên Hòa và Ðà Nẳng là những điểm nóng quan trọng điển hình. Nồng độ TCDD trong đất ở Biên Hòa được ghi nhận lên đến 1,2 triệu phần ức (ppt) (Schecter et al., 2001). Tài liệu mật [anecdotal] từ các khoa học gia Việt Nam cho thấy mức độ dioxin trong đất ở Ðà Nẳng có thể lên đến vài trăm ngàn ppt.” (5)
“Các căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Ðà Nẳng, Phù Cát, và Biên Hòa có thể được xem như là những ‘điểm nóng’ quan trọng vì nồng độ TCDD quan sát được ở ‘hạ lưu” của các địa điểm tình nghi là khu vực Ranch Hand. Trong nghiên cứu nầy, các ‘địa điểm tình nghi chính yếu’ chưa được trực tiếp phân tích vì chánh quyền Việt Nam không cho phép. Tuy nhiên, những trị số TCDD rất cao (Bảng 1), cho thấy sự quan trọng của chất da cam trong toàn thể độc tố của các mẩu đất hoặc bùn, vì TCDD phát xuất từ chất da cam... Một căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở Việt Nam không được xếp loại ‘nóng’ không có nghĩa là nó không bị ô nhiễm; nó chỉ có nghĩa là ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xác định vì thiếu dữ kiện (trong nghiên cứu nầy, nghiêm trọng được định nghĩa là ≥ 190 pg/g [phần ức hay ppt] TCDD).” (6)
TAI NẠN THUỐC KHAI QUANG TRONG THỜI CHIẾN
Những tai nạn liên quan đến việc sử dụng thuốc khai quang trong cuộc chiến Việt Nam; chẳng hạn như rò rỉ từ bồn chứa, xả khẩn cấp hoặc rò rỉ từ máy bay Ranch Hand, và thiệt hại về cây ăn trái và hoa màu; được báo cáo trong nhiều tài liệu mật. Những tài liệu nầy; gồm có biên bản ghi nhớ, ghi chú, và phúc trình để báo cáo kết quả điều tra tai nạn; vừa được giải mật và công bố qua Trung tâm Sưu tầm Tài liệu của Quân vụ Hoa Kỳ (Center for Unit Records Research of the US Armed Services (USAS/CURR)) ở Springfield, Virginia. Một số tai nạn liên quan đến thuốc khai quang đáng chú ý được mô tả tóm tắt dưới đây.
Rò rỉ thuốc khai quang ở Căn cứ Không quân Biên Hòa
Căn cứ Không quân Biên Hòa là căn cứ lớn nhất trong số 5 căn cứ vận hành của Chiến dịch Ranch Hand bao gồm Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt (Sài Gòn), Ðà Nẳng, Nha Trang, và Phù Cát (Qui Nhơn). Hầu hết các phi vụ khai quang Ranch Hand thực hiện từ tháng 12/1966 đến tháng 07/1970 đều xuất phát từ căn cứ nầy (9).
Theo biên bản ghi nhớ của Trung tá Keith W. West, Tư lệnh Phi đoàn Ðặc nhiệm (SOS) 12th của Chiến dịch Ranch Hand ở Căn cứ Không quân Biên Hòa, các vụ rò rỉ thuốc khai quang xảy ra từ đường ống ngầm của hệ thống tồn trữ và phân phối mới vừa hoàn tất vào ngày 14 tháng 1 năm 1970. Hệ thống được xây dựng để có thể bơm 3 loại thuốc khai quang (trắng, xanh, và da cam) từ các bồn chứa vào các máy bay Ranch Hand đậu ở khu vực tiếp liệu và bảo trì. “Ðường ống ngầm bằng plastic có thể chịu một áp suất lên đến 300 PSI [pounds per square inch]. Áp suất tối đa dùng bơm thuốc khai quang lên máy bay vào khoảng 45 đến 65 PSI. Vì tất cả đường ống đều nằm dưới mặt đất, rò rỉ chỉ được phát hiện khi áp suất trong đường ống bị giảm bất thường. Số lượng của mỗi bồn chứa được theo dõi hàng ngày bằng số lượng còn trong bồn trừ số lượng bơm lên máy bay. Dường như đây là phương pháp duy nhất để xác định xem có rò rỉ hay không [?].” (10)
Ngày 15 tháng 1 năm 1970, gần 500 gallons chất màu trắng rò rỉ từ mối nối chữ T của đường ống ngầm. “Không có thuốc khai quang chảy tràn trên mặt đất; tất cả số lượng rò rỉ thấm vào đất ở chung quanh chỗ bị bể.” (10) Ngày 5 tháng 2 năm 1970, một mối nối chữ L của đường ống ngầm bị sút khiến khoảng 1.000 gallons chất da cam bị rò rỉ, nhưng chi tiết không được báo cáo. Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 2 năm 1970, một mối nối khác của đường ống ngầm lại bị sút. Gần 500 gallons chất da cam bị thất thoát, nhưng chi tiết không được báo cáo.
Tai nạn nghiêm trọng nhất có lẽ xảy ra ngày 28 tháng 2 năm 1970 với khoảng 7.500 gallons chất da cam rò rỉ từ một lỗ thủng có đường kính ½ inch trên đường ống ngầm. “Vào khoảng 7:30 sáng ngày 1 tháng 3 năm 1970, Thiếu tá Iorcross, 12SOS được Trung sĩ Webb của Ban Thuốc khai quang thông báo việc rò rỉ trong hệ thống bơm thuốc khai quang. Công binh được thông báo để đào đường ống sau khi đã đóng tất cả các khóa (valves) của hệ thống. Một lỗ thủng có đường kính ½ inch được tìm thấy trên một đoạn ống thẳng giữa khu S-13 và S-12 (tham khảo sơ đồ tổng thể của BHAB, RVN [Căn cứ Không quân Biên Hòa, Việt Nam Cộng Hòa] trong hồ sơ của Chỉ huy trưởng Bảo trì, 3TFW [Vùng III Chiến Thuật]). Vào lúc nầy, sĩ quan trực của Phi đoàn Ðặc nhiệm 12th được thông báo và số lượng thuốc khai quang trong bồn chứa chất da cam được kiểm tra. Sau khi khấu trừ số lượng sử dụng trong đêm qua, 3 feet (khoảng 7.500 gallons) thuốc khai quang được xác nhận là thất thoát.
Một bồn chứa thuốc khai quang
ở Căn cứ Không quân Biên Hòa (9)
Việc rò rỉ được sửa chữa bằng cách gắn mối nối Dresser chung quanh nơi đường ống bị hư hại. Một bờ đất được đấp ngay lập tức để chận nước chảy tràn trên mặt đất (ước lượng khoảng 100 gallons).
Sau đó một đập làm bằng đất lấy tại chỗ được xây ngay phía dưới đường ống ngầm để chận nước chảy tràn nếu đường ống bị bể trong tương lai. Ngày 7 tháng 3, Bác sĩ của Phi đoàn được liên lạc để xác định phương pháp lấy mẩu nước và đất ở nơi bị ô nhiễm thuốc khai quang. Những biện pháp kiểm soát tại chỗ đã được thay đổi để đóng tất cả các khóa của hệ thống vào ban đêm, ngoại trừ trường hợp phải bơm thuốc lên máy bay. Vì tất cả những tín hiệu của hệ thống (áp suất của bơm và lưu lượng của thuốc khai quang ở vòi) vẫn bình thường, biện pháp nầy được xem là cần thiết để tránh những tai nạn tương tự trong tương lai.
Khoảng 2 tuần sau, Ðại úy Altum, MACV J3-09, được báo cáo trong một chuyến thăm viếng của Ông. Tai nạn rò rỉ, những biện pháp khắc phục, và nhu cầu lấy mẩu để xác định ảnh hưởng của đường ống bể được thảo luận. Bác sĩ của Phi đoàn đề nghị Quân Y Biên Hòa phụ trách vấn đề lấy mẩu. Họ cho biết, căn cứ không quân gần nhất có khả năng thử nghiệm 2-4D và 2-4-5T là Căn cứ Không quân McCellan. Trung sĩ Larson bên Quân Y đã liên lạc với Phi đoàn Ðặc nhiệm 12th vào ngày 22 tháng 3 năm 1970 để thảo luận phương pháp lấy mẩu nước.
Ðập đất đã ngăn chận được tất cả nước và thuốc khai quang còn sót lại. Chất lỏng không còn chảy vào hệ thống thoát nước nữa. Tuy nhiên, nơi xảy ra tai nạn hiện đang ngập đầy nước nên đập đất sẽ không còn hiệu quả trong mùa mưa. Một số lượng nước đã được xả qua đập và để cho thấm vào đất cát trong mương thoát nước.
Tai nạn được báo cáo lên Ðại tá Whiteside, MACV J3-09, ngày 21 tháng 3 năm 1970. Theo đề nghị của Ông, Công binh sẽ thay thế tất cả ống plastic bằng ống sắt và be bờ chung quanh các bồn chứa để ngăn chận tất cả thuốc khai quang trong trường hợp các bồn chứa bị bể.” (10)
Những nơi bị thiệt hại vì thuốc khai quang
trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng (12)
Ảnh hưởng đối với môi trường của các vụ rò rỉ nầy đã được điều tra và mô tả trong một biên bản ghi nhớ do Pacific Technical Analysts – Subsidiary soạn ngày 29 tháng 4 năm 1970. “Các vụ rò rỉ đã làm một vài nơi của nền đất đấp (artificial fill) và đất cát lắng ở mương thoát nước bị bão hòa. Vụ rò rỉ từ đường ống bể ngày 1 tháng 3 năm 1970 làm bão hòa một phần của nền đất đấp, và một phần giữa nền đất đất đấp và lớp đất cát pha sét ở bên dưới. Các mẩu đất lấy ở vách mương khảo sát (exploration trench), được đào giữa nơi rò rỉ và đường thoát nước, bị ô nhiễm thuốc khai quang da cam với nồng độ thay đổi từ 0,2 cho đến 106,1 phần triệu (parts per million (ppm)). Sự phân phối các mẩu nầy cho thấy thuốc khai quang bị giới hạn trong nền đất đấp và khoảng 1 đến 2 inches phần trên cùng của lớp đất cát pha sét. Nồng độ trong đất lên đến 10 phần triệu, được tìm thấy trong các mẩu lấy từ lớp đất cát pha sét hoặc lớp đất sét có nhiều màu (mottled clay) nằm bên dưới nền đất đấp từ 1 đến 3 feet, có lẽ do sự lan truyền cơ học (mechanical spreading) trong khi đào mương khảo sát. Thuốc khai quang khó có thể lan xa hơn một vài inches trong lớp đất cát pha sét nằm bên dưới nền đất đấp trong suốt thời gian kể từ khi xảy ra vụ rò rỉ.” (11)
Thiệt hại cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng
Những thiệt hại do thuốc khai quang gây ra cho cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng xảy ra trong tháng 9 và 10 năm 1968. Kết quả nhiều cuộc điều tra, được thực hiện để xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại, cho thấy cây ăn trái và hoa màu trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng bị thiệt hại vì số thuốc khai quang còn sót lại trong các thùng 55-gallon đựng thuốc khai quang (12-15).
“Việc phân phối rộng rãi các thùng không từng chứa thuốc khai quang, với khoảng từ 2 đến 3 gallons thuốc còn sót lại, rất phổ biến ở hai căn cứ Ranch Hand chánh yếu ở Biên Hòa và Ðà Nẳng. Việc vận chuyển các thùng không nầy trong khắp thành phố và vùng phụ cận, cộng với việc rò rỉ và bay hơi (volatilization) không thể tránh khỏi của thuốc khai quang còn sót lại trong thùng, chắc chắn, đã gây thiệt hại đáng kể cho cây che mát (shade trees), cây ăn trái, và hoa màu trong vùng mà các thùng không nầy được phế thải. Vấn đề được ghi nhận trong phúc trình “Thiệt hại do thuốc khai quang ở Ðà Nẳng” ngày 25 tháng 3 năm 1969 của Trung tá Jim Corey, Chỉ huy phó CORDS/NLD/I CTZ, gởi cho R.M. Urguhart, Chỉ huy trưởng CORDS/NLD/I CTZ, được lưu trữ trong hồ sơ của Ban Hành quân Hóa học (Chemical Operations Division), MACV J3-09. Như được trình bày trong phúc trình và được các thành viên của đoàn quan sát trong vùng Ðà Nẳng, rất nhiều thùng không từng đựng thuốc khai quang được tìm thấy khắp nơi trong thành phố và vùng phụ cận. Các thùng nầy được dùng để đựng xăng, dầu cặn (diesel fuel) và nước dù có một số ít thuốc khai quang vẫn còn sót lại trong thùng. Việc dùng xăng bị ô nhiễm thuốc khai quang để chạy xe gắn máy và các loại xe khác chắc chắn là nguyên nhân chánh yếu của các thiệt hại do hiện tượng bay hơi của nhiều chất khác nhau được chứa trong các thùng không.
Mức thiệt hại trong thành phố Ðà Nẳng đã đưa đến những biện pháp giới hạn việc phân phối các thùng thuốc khai quang. Một trong các biện pháp cần thiết để ngăn chận sự thiệt hại là chôn hoặc phế thải một cách an toàn (safe disposal) các thùng không bị ô nhiễm thuốc khai quang.” (15)
Thiệt hại do số thuốc khai quang còn sót lại trong thùng từng đựng thuốc khai quang không chỉ giới hạn trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng. Một cuộc điều tra trong tháng 9 năm 1969 cũng cho thấy những thiệt hại tương tự ở bên trong Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ở Ðà Nẳng. “Có tất cả tám thùng thuốc khai quang DA CAM được tìm thấy bên trong Bộ Tư lệnh. Hai trong bốn thùng ở Bãi xăng dầu còn nồng nặc mùi thuốc khai quang. Bốn thùng còn lại ở gần xe báo hiệu thì chứa đầy xăng. Xăng trong các thùng nầy dùng để chạy máy phát điện. Phó tư lệnh James và Ông Xuân được thông báo là xăng trong các thùng có thể chứa một ít thuốc khai quang, do đó, khói do máy phát điện phun ra sẽ chứa hơi thuốc khai quang có thể ảnh hưởng đến hoa màu ở chung quanh. Họ cũng được lưu ý rằng hơi bốc ra từ số thuốc khai quang còn sót lại trong các thùng không cũng có thể là nguyên nhân gây thiệt hại cho hoa màu ở gần đó.” (16)
Xả khẩn cấp và rò rỉ từ máy bay Ranch Hand
Trong trường hợp khẩn cấp như động cơ bị hư vì trúng hỏa lực của địch hay vì lý do kỹ thuật, toàn bộ 1.000 gallons thuốc khai quang trong bồn chứa trên máy bay UC-123 phải được xả khẩn cấp (emergency dumping) để bảo đảm an toàn cho máy bay và phi hành đoàn. Máy bay UC-123 là loại máy bay dùng trong Chiến dịch Ranch Hand. Theo tài liệu thống kê của Quân đội Hoa Kỳ, có 37 vụ xả khẩn cấp với tổng cộng 11.800 gallons thuốc khai quang đã xảy ra từ năm 1965 đến 1970; gồm có 11 vụ với 4.200 gallons chất da cam, 8 vụ với 2.100 gallons chất màu xanh, 6 vụ với 3.900 gallons chất màu trắng, và 12 vụ với 1.600 gallons thuốc khai quang không rõ loại (17).
“Hồ sơ lưu trữ của Ban Hành quân Hóa học ở MACV cho thấy năm vụ xả khẩn cấp từ máy bay RANCH HAND xảy ra trong khoảng từ ngày 1 tháng 12 năm 1968. Một vụ xảy ra ở ngoài biển Ðông, cách bờ khoảng 10 km về phía nam tỉnh Bạc Liêu. Bốn vụ còn lại xảy ra trong phạm vi có bán kính từ 20 đến 25 km chung quanh Biên Hòa ở cao độ từ 2.000 đến 3.500 feet. Kết quả khảo sát một vị trí cách Biên Hòa 20 km về phía thượng nguồn sông Guai [?] của Marvin Davis bên USAID cho thấy thiệt hại về cây ăn trái, dừa, cây kiểng, và hoa màu có giá trị cao trong một vùng rộng khoảng 1 km và dài khoảng 2 km. Ở một vị trí khác gần làng Mỹ Quới, tỉnh Biên Hòa nơi chất DA CAM được xả từ cao độ 2.500 feet, vùng thiệt hại rộng khoảng 1 km và dài khoảng 2-3 km, cũng theo phúc trình của Marvin Davis bên USAID. Cam quít, xoài, chuối, dừa, cau bị thiệt hại nặng nhất. Tuy nhiên, hoa màu ngắn ngày được trồng 6 tuần sau vụ xả khẩn cấp thì không bị ảnh hưởng. Thiệt hại của các vụ xả khẩn cấp có thể rất nặng trong vùng ảnh hưởng của chúng, nhưng nếu gặp điều kiện thời tiết thuận lợi, những vùng chung quanh cũng có thể bị thiệt hại, nhưng nhẹ hơn, vì thuốc bị thổi tạt đi xa hơn khi được phun ở cao độ khá cao. Một phần thiệt hại của cây che mát ở phía đông thành phố Biên Hòa có thể do những vụ xả khẩn cấp ở vùng phụ cận gây ra.” (16)
Rò rỉ có thể xảy ra từ máy bay UC-123 hoặc trực thăng nếu vòi của hệ thống phun trên máy bay bị rò rỉ. “Vòi thường bị rò rỉ trên đường bay trở về căn cứ sau khi hoàn tất phi vụ. Vì màn bơm bị kẹt nên một số lượng nhỏ thuốc khai quang còn sót lại trong ống phun có thể rơi xuống sau khi tắt máy bơm thuốc. Mức thiệt hại do thuốc khai quang rò rỉ từ hệ thống bơm trên máy bay UC-123 gây ra cho hoa màu và các loại thực vật khác thì không được biết, nhưng chắc là rất thấp vì chỉ liên quan đến một số lượng nhỏ thuốc khai quang và bị khuếch tán khi rò rỉ từ cao độ khá cao.” (16) Lúc ban đầu, rò rỉ từ máy bay Ranch Hand bị nghi ngờ là nguyên nhân của những thiệt hại nặng nề ở vườn rau kiểu mẫu ở Quận Hòa Vang trong tháng 9 năm 1968. Vườn rau kiểu mẫu nầy nằm ở phía nam của Căn cứ Không quân Ðà Nẳng, trên đường cất cánh thông thường của máy bay Ranch Hand. Nhưng “Việc rò rỉ khó có thể xảy ra khi máy bay cất cánh hay trước khi thuốc khai quang trên máy bay được phun. Rò rỉ chỉ xảy ra khi khóa bị hư sau khi phun thuốc... Cũng cần nói thêm là những vùng thiệt hại khác thì nằm ngoài đường bay của máy bay phun thuốc khai quang. Hơn nữa, hoa màu đang trồng bên phía đông Ðà Nẳng (vùng tô màu nâu trên bản đồ) thì không bị thiệt hại mặc dù máy bay Ranch Hand vẫn thường bay qua vùng nầy.” (12)
Tai nạn không hề biết
ở Tân cảng Sài Gòn
Tai nạn đổ tháo thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn thì không hề được biết đến như các tai nạn khác, nhưng được ghi nhận một cách tình cờ qua các hình ảnh cá nhân do thành viên của Tiểu đoàn Vận tải 71st chụp và đăng tải trên một trang web của Allan Furtado (một trung sĩ của Ðại đội 154th) có địa chỉ là http://www.allanfurtado.com.
Tân cảng Sài Gòn năm 1968 (19)
Những thùng thuốc khai quang
vận chuyển qua Tân cảng Sài Gòn (20)
Tân cảng Sài Gòn nằm trên sông Sài Gòn, cách Cảng Sài Gòn khoảng 3 dặm về hướng bắc, ngay phía dưới cầu Sài Gòn trên Xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa. Cảng do công ty Raymond International, Morrison-Knudson International, Brown & Root and J. A. Jones (RMK-BRJ) xây cất trên một khu đất rộng khoảng 100 acres, một phần là ruộng lúa và một phần là đầm lầy ngập nước khi thủy triều lên. Sau khi hoàn tất vào cuối năm 1966, Tân cảng Sài Gòn được điều hành bởi Tiểu đoàn Vận tải 71st có căn cứ ở Fort Story, Virginia để tiếp nhận tất cả hàng hóa của Quân đội Hoa Kỳ đang được bốc dỡ ở Cảng Sài Gòn vào thời điểm đó (18).
Những thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn (21)
Những thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn (21)
Những thùng thuốc khai quang ở Tân cảng Sài Gòn bị hư hại
vào tháng 5 năm 1968 (22)
Những thùng chất da cam ở Tân cảng Sài Gòn (21)
Trong đợt Tổng công kích Tết Mậu Thân giai đoạn 2, Tân cảng Sài Gòn bị pháo kích bằng hỏa tiển 122 mm và súng cối vào ngày 12 tháng 5 năm 1968. Vụ tấn công nầy đã gây thiệt hại quan trọng cho cơ sở và khí cụ ở Tân cảng Sài Gòn. Cầu Sài Gòn cũng bị hư hại.
Văn phòng điều hành bị hư hại (22)
Khí cụ bị hư hại (22)
Cầu Sài Gòn bị hư hại (21)
Trong số các thiệt hại đó có thể là hàng ngàn thùng chất da cam và chất màu trắng, được ghi nhận tình cờ trong một bức ảnh với lời chú thích: “Bức ảnh nầy cũng được đăng trên một trong các trang web của Al Krabbenhoeft. Tôi nghĩ rằng nó đáng để chúng ta xem lại một lần nữa. Một nhân viên dân sự ở Tân cảng đang quan sát vị trí nơi James Lake thiệt mạng vì hỏa tiển pháo kích ngày 12 tháng 5 năm 1968. Cô đang cười vì được chụp ảnh. Hãy nhìn phía sau. Ðó là những thùng bị hư và bể. Khi nhìn kỹ sẽ thấy những sọc màu trắng và da cam.” Bức ảnh nầy được chụp bởi SP4 Richard Allen Morawa, thành viên của Ðại đội 368th thuộc Tiểu đoàn Vận tải 71st, phụ trách bảo vệ an ninh cho Tân cảng Sài Gòn vào lúc đó (22).
TIÊU CHUẨN DÙNG ÐỂ
XÁC ÐỊNH “ÐIỂM NÓNG”
Vì Việt Nam chưa có tiêu chuẩn dùng để xác định địa điểm ô nhiễm, HCL đã dùng tiêu chuẩn do tiểu bang British Columbia, Canada (BC) ấn định cho đất nông nghiệp và đất thổ cư/công viên để xác định điểm nóng dioxin ở Việt Nam. Ðể bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn BC giới hạn nồng độ dioxin trong đất ở mức 10 ppt Tổng TEQs đối với đất nông nghiệp và 1.000 ppt Tổng TEQs đối với đất thổ cư/công viên. Ðể bảo vệ sức khỏe con người, nồng độ dioxin trong đất không được quá 350 ppt Tổng TEQs cho tất cả các loại đất (8).
Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ (EPA) đã ấn định mục tiêu điều trị
tạm thời (Preliminary Remediation Goals) hay khởi điểm cho việc ấn định
mức tẩy xóa dioxin ở trong đất tại các địa điểm khắc phục ô nhiễm chi phối
bởi Ðạo luật Tổng quát về Ðối phó, Bồi thường, và Trách nhiệm Môi trường
(Comprehensive Environmental Response, Compensation, and Liability Act
(CERCLA), thường được gọi là các địa điểm “Siêu ngân.”
Ðối với đất thổ cư, 1 phần tỉ (hay 1.000 ppt) Tổng TEQs được dùng làm
khởi điểm để tẩy xóa dioxin ở các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu
điều trị tạm thời để giảm dioxin ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm.
Ðối với đất thương mãi/kỹ nghệ, nồng độ trong đất từ 5 đến 20 phần tỉ
(5.000 đến 20.000 ppt) Tổng TEQs được dùng làm khởi điểm
để tẩy xóa dioxin ở các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị
tạm thời để giảm dioxin ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm
Ở Hoa Kỳ, Cơ quan Bảo vệ Môi sinh (EPA) đã ấn định mục tiêu điều trị tạm thời (preliminary remediation goals (PRGs)) hay khởi điểm cho việc ấn định mức tẩy xóa dioxin ở trong đất tại các địa điểm khắc phục ô nhiễm (corrective action sites) chi phối bởi Ðạo luật Tổng quát về Ðối phó, Bồi thường, và Trách nhiệm Môi trường (Comprehensive Environmental Response, Compensation and Liability Act (CERCLA)) và Luật Bảo tồn và Phục hồi Tài nguyên (Resource Conservation and Recovery Act (RCRA)), thường được biết dưới cái tên địa điểm “Siêu ngân” (“Superfund” sites). Những mức độ nầy được ấn định để bảo vệ sức khỏe con người và môi trường. “Một ppb [phần tỉ hay 1.000 ppt] (TEQs, hay độ độc tương đương) được dùng làm khởi điểm để ấn định mức tẩy xóa cho các địa điểm “Siêu ngân” và làm mục tiêu điều trị tạm thời để giảm mức độ dioxin trong đất thổ cư ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm. Ðối với đất thương mãi/kỹ nghệ, một nồng độ trong đất từ 5 đến 20 phần tỉ [5.000 đến 20.000 ppt] (TEQs) phải được dùng làm khởi điểm để ấn định mức tẩy xóa cho các địa điểm “Siêu ngân’ và làm mục tiêu điều trị tạm thời để giảm mức dioxin trong đất ở các địa điểm khắc phục ô nhiễm.” (23)
Cơ quan Phòng ngừa Bệnh tật và Ðộc tố (Agency for Toxic Substances and Disease Registry (ATSDR)) thuộc Bộ Y tế và Xã hội Hoa Kỳ cũng đã phê chuẩn một tài liệu hướng dẫn tạm thời (interim policy guideline) để lượng giá ảnh hưởng của các hợp chất dioxin và họ dioxin (dioxin and dioxin-like compounds) trong đất thổ cư ở tại hoặc gần các địa điểm có chất thải độc hại (hazardous waste sites). Tài liệu hướng dẫn tạm thời nầy giải thích một cách rõ ràng và hợp lý chánh sách và đường lối hiện nay của ATSDR đối với những hiểm nguy do sự hiện diện của TCDD (dioxin) và các hợp chất cùng họ ít độc hơn, chlorinated dibenzo-p-dioxins (CDDs) và chlorinated dibenzo furans (CDFs), ở trong đất thổ cư.
Khi nồng độ ước tính trong đất thay đổi trong khoảng từ 50 đến 1.000 ppt Tổng TEQs, phương pháp cân nhắc bằng chứng (weight-of-evidence approach) phải được áp dụng để đánh giá mức độ ô nhiễm và ảnh hưởng của chúng đối với sức khỏe con người. Nồng độ 1.000 ppt Tổng TEQs được ATSDR xem như là “nồng độ của hóa chất, ở đó, các biện pháp để chận đứng hoặc ngăn ngừa ô nhiễm cần phải được cứu xét, chẳng hạn như khảo sát, khảo cứu, nghiên cứu y tế, giáo dục cộng đồng, tu nghiệp, hoặc điều tra tình trạng tiếp xúc với ô nhiễm (exposure investigations). Tuy nhiên, những biện pháp nầy có thể không cần thiết tùy theo kết quả lượng định của Giám định viên Y tế (health assessor).” (24)
Giám định viên Y tế phải trả lời các câu hỏi sau đây:
· Phạm vi ô nhiễm rộng như thế nào?
· Ô nhiễm tập trung hay lan rộng?
· Người lớn và trẻ con có tiếp cận dễ dàng với đất hoặc nơi ô nhiễm không? Vùng ô nhiễm như thế nào (có cây cối hay không)?
· Ở địa điểm nầy, chu kỳ (hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng) và thời khoảng (tháng, năm, trọn đời) tiếp xúc với ô nhiễm ra sao?
Nếu việc tiếp xúc với đất thổ cư có nồng độ dioxin vượt quá 1.000 ppt Tổng TEQs được xem là thái quá, địa điểm được ATSDR ấn định là nguy hiểm cho sức khỏe công cộng. Các biện pháp và đề nghị cá biệt về y tế cần phải được cứu xét để ngăn ngừa hoặc ngăn chận việc tiếp xúc với ô nhiễm.
NỒNG ÐỘ DIOXIN TRONG ÐẤT
Ở CÁC “ÐIỂM NÓNG”
Trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau
Vị trí của các căn cứ quân sự trong thung lũng A Shau (26)
Trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau (nay là A Sô) là một trong ba căn cứ của lực lượng đặc biệt được thiết lập trong thung lũng A Shau (nay là A Lưới). “Thung lũng A Shau, một vùng đất nhiệt đới giàu có và màu mỡ dài 35 miles, chạy dọc theo ranh giới phía tây của tỉnh Thừa Thiên. Bạn có thể cảm nhận sự thần bí của thung lũng khi nhìn thấy nó lần đầu tiên, từ trên không hay ở dưới đất. Tài liệu lịch sử của A Shau không có bao nhiêu. Kể từ năm 1962, thung lũng đã trở thành ác mộng của lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam [Cộng Hòa] khi họ thiết lập các căn cứ ở A Lưới trong vùng trung bắc, ở Tà Bạt trong vùng trung tâm, và ở A Shau trong vùng phía nam. Ngoài ba căn cứ với các phi đạo tí hon, A Shau còn có khoảng 30.000 cư dân thuộc sắc tộc Katu và Pakoh. Các trại nầy, từng trại một, bị bắt buộc phải đóng cửa vì không thể tiếp tục hoạt động dưới áp lực của Việt Cộng và quân Bắc Việt. Yếu tố tiếp liệu, thời tiết, và địch quân là các lý do của việc rút quân, đầu tiên là A Lưới, rồi Tà Bạt, và sau cùng là A Shau vào tháng 3 năm 1966. Thung lũng thuộc quyền kiểm soát của địch quân trong hai năm. Mãi đến năm 1968, lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh mới trở lại A Shau, một thiên đàng của địch.” (25)
Vào năm 1996, sau khi “tham khảo” với nhiều cơ quan chức năng của chánh phủ Việt Nam và các Ủy ban Nhân dân trước khi xúc tiến việc nghiên cứu tại chỗ, HCL đã tiến hành việc lấy mẩu thăm dò trong thung lũng A Shau. “Dữ kiện của chương trình 1996 cho thấy các mẩu đất và cá thu thập từ A Sô ở phía nam thung lũng A Lưới có chứa dioxin (đất: 33,3 pg/g và 112,6 pg/g TEQ; cá: 2,6 pg/g và 53,7 pg/g TEQ). Dữ kiện năm 1996 là nền tảng cho cuộc thăm dò chi tiết hơn trong năm 1997 ở A Sô và một căn cứ không quân nhỏ của lực lượng đặc biệt Mỹ ở trong vùng… Giống như cuộc thăm dò năm 1996, đất ở căn cứ cũ của Mỹ có nồng độ dioxin cao nhất (92,2 pg/g và 901,2 pg/g TEQ); hợp chất 2,3,7,8-T4CDD chiếm đến 96% và 99,6% Tổng TEQs của các mẩu nầy. Dữ kiện nầy cho thấy nguồn gốc của 2,3,7,8-T4CDD thì có liên quan đến chất da cam, vì hợp chất nầy là chất ô nhiễm chánh của chất da cam hiện diện trong loại thuốc diệt cỏ 2,4,5-T [2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid], một thành phần của hỗn hợp chất da cam .” (2)
Phi đạo A Lưới năm 1969 (Ảnh: Raz Reed) (27)
Phi đạo Tà Bạt năm 1969 (Ảnh: Larry Wagoner) (28)
Trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau và phi đạo năm 1969
(Ảnh: Larry Wagoner) (28)
Năm 1999, HCL lại tiến hành một cuộc thăm dò khác bao gồm toàn thể thung lũng A Shau với trọng tâm là trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau. “Nói chung, nồng độ dioxin trong các mẩu đất thu thập khắp nơi trong thung lũng A Lưới thì thấp hơn rất nhiều so với các mẩu đất ở căn cứ A Sô cũ. Trung tâm của các hoạt động quân sự qui mô (đó là các trại lực lượng đặc biệt) có nồng độ TCDD cao nhất… Như được ghi nhận trong các cuộc thăm dò trước đây, các mẩu đất lấy ở trại Lực lượng Ðặc biệt Mỹ ở A Sô có nồng độ TCDD cao nhất (220 pg/g - 360 pg/g; Bảng 2.3)… Khu vực phía bắc của căn cứ A Sô có mức độ TCDD cao nhất. Mức độ [dioxin] giảm dần về phía nam của căn cứ. Trị số TCDD năm 1999 ở căn cứ A Sô thì thấp hơn trị số năm 1997 (895,85 pg/g, Hình 2.6), cho thấy mức biến thiên rất cao của nồng độ trong phạm vi căn cứ… Sự biến đổi của nồng độ TCDD trong đất ở gần căn cứ A Sô (1996, 1997 và 1999) cho thấy nhiều khu vực của căn cứ bị ô nhiễm cao, và ở một vài nơi [nồng độ dioxin trong đất] có lẽ vượt quá trị số được báo cáo trong phúc trình.” (29) Nhưng nồng độ trong đất chỉ thay đổi từ 26 đến 46 ppt Tổng TEQs ở vùng trung tâm và từ 4,9 đến 16 ppt Tổng TEQs ở vùng phía nam của căn cứ. Hai trại lực lượng đặc biệt còn lại trong thung lũng A Shau cũng được HCL thăm dò, nhưng nồng độ dioxin trong đất thì thấp hơn rất nhiều. Các nồng độ nầy thay đổi từ 5,5 đến 37 ppt Tổng TEQs ở trại Lực lượng Ðặc biệt Tà Bạt và từ 5,7 đến 20 ppt Tổng TEQs ở trại Lực lượng Ðặc biệt A Lưới (29).
Căn cứ Không quân Ðà Nẳng
Mặc dù Căn cứ Không quân Ðà Nẳng được HCL và Ủy ban 10-80 xác nhận là một trong những điểm nóng dioxin ở Việt Nam và được MOU và Ford Foundation chọn để nghiên cứu thêm, dữ kiện và tin tức liên quan đến ô nhiễm dioxin ở đây thì không có bao nhiêu. Không có một vụ rò rỉ hay đổ tháo thuốc khai quang nào được báo cáo, ngoại trừ những thiệt hại được phổ biến trong năm 1968.
Vào năm 2003, trong một cuộc điều tra được xem là một phần của “Kế hoạch nghiên cứu dioxin cấp nhà nước để tìm hiểu hậu quả của chất độc hóa học do Quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Chiến dịch Ranch hand từ 1961-1971) (NDRP),” hai mẩu đất được thu thập để phân tích các hợp chất polychlorinated dibenzo dioxins (PCDDs) và polychlorinated dibenzo furans (PCDFs). “Vì các biện pháp an ninh chúng tôi không thể thực hiện việc lấy mẩu bên trong sân bay, do đó chúng tôi chọn địa điểm lấy mẩu bên ngoài sân bay ở gần đường bay, nơi chất thải từ máy báy được liệng ra ngoài sau các chuyến bay trong thời chiến tranh [?].” (30)
Vị trí lấy mẩu ở vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng năm 2003 (30)
Nồng độ trong đất đo được 4,5 ppt Tổng TEQs ở địa điểm gần sân bay và 4,1 ppt Tổng TEQs ở địa điểm kia. “Ðiều nầy hợp lý, vì như chúng tôi đã nói ở trên, địa điểm DN1 ở gần sân bay và là nơi chứa rác của sân bay trong thời gian qua… Tuy nhiên, dựa theo dữ kiện trong bảng 5.4, phần lớn Tổng TEQ của địa điểm DN2 là do OCDD [octa-chlorodibenzo-p-dioxin] và 1,2,3,4,6,7,8-HpCDD – các hợp chất được xem là ít độc (với TEFs bằng 0,01 và 0,001). Các hợp chất nầy có lẽ phát xuất từ những nguồn ô nhiễm khác chẳng hạn như tro khi đốt thuốc khai quang phế thải [?].” (30) Cũng cần nên biết nồng độ TCDD trong đất ở địa điểm DN2 là 0,2 ppt.
Nồng độ trong đất cũng được biết đến qua nhiều bài viết và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết về các nồng độ nầy thì không được cung cấp. Theo HCL, nồng độ dioxin của 21 mẩu đất thu thập trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Ðà Nẳng trong tháng 3 năm 2005 thay đổi từ dưới 1 ppt đến 269 ppt Tổng TEQs với nồng độ TCDD cao nhất là 227 ppt (6). Theo Ủy ban 33, Căn cứ Không quân Ðà Nẳng là điểm nóng “nóng nhất,” với 85.000 m3 đất ô nhiễm có nồng độ trung bình là 10.000 ppt Tổng TEQs (31).
Rừng Mã Ðà
Rừng Mã Ðà là địa điểm thứ hai được MOU chọn để nghiên cứu thêm. “Trước năm 1975, Mã Ðà được gọi là Chiến khu D – là một căn cứ của Quân đội [Nhân dân] Việt Nam trong thời chiến tranh Việt-Mỹ. Vùng nầy chịu ảnh hưởng nặng nề của chất độc hóa học và vũ khí giết người. Trong thời gian 1964-1969, thuốc khai quang được phun ở Chiến khu D để phá hủy rừng ở địa phương (Trung, T.V. 1982). Rừng dọc theo đường 322, từ sông Ðồng Nai đến suối Mã Ðà (35 km) hầu như bị phá hủy hoàn toàn vì bị phun thuốc khai quang nhiều lần. Diện tích rừng bị thiệt hại lên đến khoảng 3.000 ha. Vào năm 1975 (sau khi Việt Nam được độc lập), Lâm trường Mã Ðà (MAYs) được thành lập để khai thác gỗ cho mục đích kinh tế. Một lần nữa, rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Vào năm 1982, sau một thời gian khai thác khá lâu, tài nguyên rừng hầu như kiệt quệ. Mục đích của MAYs là chuyển từ khai thác qua khôi phục rừng. Các hoạt động trồng rừng tập trung vào những loại gỗ có giá trị kinh tế cao chẳng hạn như Dipterocarpaceae, Hopea Odorata, v.v. để phục hồi tài nguyên rừng. Nhiều kỹ thuật tái tạo rừng được áp dụng để tăng gia sản lượng gỗ được ghi trong kế hoạch.” (30)
Vào năm 1997, HCL và Ủy ban 10-80 tiến hành một cuộc điều tra trong vùng phụ cận phi trường quân sự ở Rang Rang. Nồng độ trong đất thay đổi từ 2,37 đến 20,33 ppt Tổng TEQs, và nồng độ trong bùn thay đổi từ 2,64 to 7,93 ppt Tổng TEQs (29).
Trong cuộc điều tra 2003, “… chúng tôi thu thập tất cả 16 mẩu (10 ở sân bay Rang Rang, 3 ở suối Mã Ðà, và 3 trong rừng tự nhiên ở chung quanh). Vì không đủ thời giờ, chúng tôi chỉ phân tích 6 mẩu (3 mẩu được kiểm chứng bởi Carso Lab và 1 mẩu được phân tích bởi Carso Lab).” (30) Nồng độ trong đất ở sân bay Rang Rang thay đổi từ 1,9 đến 6,7 ppt Tổng TEQs. Nồng độ của mẩu đất lấy trong rừng tự nhiên là 1,3 ppt Tổng TEQs. Nồng độ của mẩu bùn lấy ở suối Mã Ðà là 2,7 ppt Tổng TEQs.
Căn cứ Không quân Biên Hòa
Vào năm 1999, 4 mẩu đất được lấy từ “Căn cứ Không quân Biên Hòa, là nơi tàng trữ chất da cam trước kia” (32). Nồng độ trong đất của các mẩu nầy được báo cáo là 0,04; 1.063; 610.874; and 1.180.737 ppt Tổng TEQs. Các mẩu đất nầy được cho biết là do cố Giáo sư Lê Cao Ðài thu thập (33), nhưng không một ai biết vị trí chính xác của chúng cả (34).
Các vị trí lấy mẩu ở Căn cứ Không quân Biên Hòa
Năm 2004, Căn cứ Không quân Biên Hòa lại được lấy mẩu trong kế hoạch NDRP, nhưng “cho đến nay, Căn cứ Không quân Biên Hòa vẫn chịu sự quản lý của Quân đội Nhân dân, do đó việc lấy mẩu ở đó cực kỳ khó khăn (thật vậy, việc lấy mẩu chánh thức bị cấm). Với sự trợ giúp của một cán bộ thuộc Sở Môi trường tỉnh Ðồng Nai, chúng tôi được vào khu vực gần đài ra đa của sân bay để lấy mẩu (06/2004). Vào lúc đó, những hoạt động xây dựng bên trong khu vực rất khẩn trương nhằm mục đích biến nơi nầy thành khu gia cư (cho gia đình binh sĩ).” (30) Nhưng vị trí lấy mẩu, như được ghi trên “Bản đồ lấy mẩu ở Căn cứ Không quân Biên Hòa và hồ Biên Hùng - Tỉnh Ðồng Nai,” (chấm màu xanh) thì không phù hợp với các tọa độ cung cấp trong luận án (chấm màu vàng). Tám mẩu đất lấy ở địa điểm phía bắc có nồng độ thay đổi từ 4,5 đến 134,7 ppt Tổng TEQs. Kết quả phân tích cho thấy TCDD không hiện diện trong mẩu có nồng độ 4,5 ppt, nhưng nồng độ của OCDD rất cao, từ 384,3 đến 44.972,8 ppt. 1,2,3,4,6,7,8-HpCDD và OCDF (octachlorodibenzofurans) cũng hiện diện nhưng ở mức thấp hơn. Nồng độ của 2 mẩu đất lấy ở địa điểm phía nam là 43,7 và 148,8 ppt Tổng TEQs.
Nồng độ trong đất cũng được biết đến qua nhiều bài viết và tin tức báo chí; tuy nhiên, chi tiết về các nồng độ nầy thì không được cung cấp. Theo HCL, nồng độ dioxin của 24 mẩu đất và bùn thu thập trong vùng phụ cận Căn cứ Không quân Biên Hòa trong tháng 3 năm 2005 thay đổi từ 1,19 to 833 ppt Tổng TEQs với nồng độ TCDD cao nhất là 797 ppt (6). Theo Ủy ban 33, Căn cứ Không quân Biên Hòa là điểm nóng “nóng thứ hai,” với 90.000 m3 đất ô nhiễm có nồng độ trung bình là 6.000 ppt Tổng TEQs (31).
TỪ LÝ THUYẾT ÐẾN THỰC TẾ:
MỘT KHOẢNG TRỐNG BAO LA
Dữ kiện và tin tức hiện có dường như không biện minh cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá trị của thuyết nầy được thảo luận dưới đây.
Nguồn gốc mơ hồ của TCDD
HCL suy đoán rằng TCDD tìm thấy ở các điểm nóng là TCDD ở trong thuốc diệt cỏ da cam được dùng trong chiến tranh Việt Nam. “Giống như cuộc thăm dò năm 1996, đất ở căn cứ cũ của Mỹ có mức độ dioxin cao nhất (92,2 pg/g và 901,2 pg/g TEQ); hợp chất 2,3,7,8-T4CDD chiếm đến 96% và 99,6% Tổng TEQs của các mẩu nầy. Dữ kiện nầy cho thấy nguồn gốc của 2,3,7,8-T4CDD thì có liên quan đến chất da cam, vì hợp chất nầy là chất ô nhiễm chánh của chất da cam hiện diện trong loại thuốc diệt cỏ 2,4,5-T [2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid], một thành phần của hỗn hợp chất da cam .” (2) Nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy TCDD có thể phát xuất từ nhiều nguồn gốc khác.
Quả thật là TCDD chiếm 96% và 99,6% Tổng TEQs của hai mẩu đó, nhưng các hợp chất họ dioxin PCDDs/PCDFs cũng hiện diện ở mức độ rất cao, đặc biệt là OCDD. Nồng độ OCDD trong hai mẩu đất nầy lên đến 697,05 và 563,84 ppt. Các hợp chất nầy chắc chắn phát xuất từ các nguồn gốc khác, và các nguồn nầy rất có thể cũng chứa TCDD. Theo Hàn lâm viện Y khoa (Institute of Medicine) của Hoa Kỳ, “phần lớn dioxins và furans trong môi trường phát xuất từ sự thiêu đốt (combustion) (Zook and Rappe, 1994, như đã trích dẫn trong ATSDR, 1998). Những tiến trình thiêu đốt bao gồm việc thiêu đốt rác (waste incineration) (chẳng hạn như rác đô thị, bùn nước cống (sewage sludge), rác y tế, và rác độc hại (hazardous waste)), đốt các loại nhiên liệu (chẳng hạn như than, gỗ, và sản phẩm dầu hỏa), các nguồn có nhiệt độ cao (chẳng hạn như lò nung xi măng), các nguồn thiêu đốt không trọn vẹn hoặc thiếu kiểm soát (chẳng hạn như cháy rừng, núi lửa, và đốt củi) (Clement et al., 1985; EPA, 2000; Thoma, 1988; Zook and Rappe, 1994, như đã trích dẫn trong ATSDR, 1998).” (35)
Trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau, thiêu đốt sản phẩm dầu hỏa, cháy rừng, cháy doanh trại, và đốt củi có thể là những nguồn TCDD. Việc thiêu đốt sản phẩm dầu hỏa đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam. “Ðể dọn bãi đáp ở những nơi có cây thấp và bụi rậm, Ban Hóa học của Sư đoàn hiện đang dùng máy bay [trực thăng] UH-1 để thả 3 thùng 55-gallon chứa đầy dầu đặc (thickened fuel). Các thùng nầy được đặt trong lưới chở hàng cũ và móc bên ngoài máy bay bằng dây. Tất cả được thả từ cao độ 250 feet ở vận tốc 0 và được châm ngòi bằng lựu đạn khói thả từ máy bay. Một vùng có đường kính khoảng 25 m bị cháy rụi.” (36)
Một nguồn TCDD khác trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau là pentachlorophenol (PCP), từng được dùng làm thuốc chống mối mọt cho căn cứ trong thời chiến tranh (37). PCP cũng có thể hiện diện trong hóa chất dùng trong nông nghiệp hiện nay. Ðiểm suy luận nầy dường như được kiểm chứng bằng nồng độ OCDD cao nhất (1.700 ppt) trong các mẩu đất lấy ở một cánh đồng ở xã Hồng Vân năm 1996. Nồng độ rất cao của OCDD đã được kiểm chứng trong cuộc điều tra năm 1999. “Trong thung lũng A Lưới, nồng độ cao nhất của octa-dioxins (O8CDD [OCDD]) được tìm thấy trong những vùng có cư dân và đốt rác phổ biến (chẳng hạn như ở xã Hồng Thương, 2.200 pg/g Tổng O8CDD; chợ Bò Ðót, 1.100 pg/g Tổng O8CDD; xã Sơn Thủy, 1.800 pg/g và 1.100 pg/g Tổng O8CDD; Bảng 2.3).” (29)
Tiêu chuẩn đất tùy tiện
Tiêu chuẩn được dùng để xác định độ “nóng” của “thuyết điểm nóng Hatfield” có lẽ là yếu tố quan trọng đáng nghi ngờ nhất. Dường như HCL đang cố sức để biện minh cho lý thuyết của mình.
Lúc ban đầu, HCL dùng tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của BC, thay vì dùng mục tiêu điều trị tạm thời của EPA hay mức hành động của ATSDR, là 1.000 ppt Tổng TEQs, để khẳng định trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau là một điểm nóng dioxin, có lẽ vì nồng độ trong đất cao nhất ở căn cứ nầy thấp hơn 1.000 ppt Tổng TEQs. HCL giải thích cho việc chọn tiêu chuẩn cao hơn như sau: “Tuy nhiên, các mức tác hại (thresholds) của PCDD and PCDF được áp dụng ở phương tây không đủ thận trọng (conservative) để bảo vệ sức khỏe con người ở vùng nông thôn Việt Nam. Tình trạng kinh tế xã hội ở thôn xã, có rất nhiều nhà nền đất, người lớn và trẻ con không mang giày dép, sự liên hệ mật thiết với đất canh tác, và điều kiện vệ sinh chung khiến họ tiếp xúc với chất ô nhiễm nhiều hơn. Do đó, hướng dẫn và tiêu chuẩn phải cao hơn trong môi trường như vậy.” (3) Nhưng tiêu chuẩn BC và mục tiêu điều trị tạm thời của EPA hay mức hành động của ATSDR được dựa trên sự tiêu hóa trực tiếp đất ô nhiễm (direct ingestion of contaminated soil); do đó, lời giải thích nầy có vẻ không thích hợp.
Dữ kiện đất được HCL dùng để xác định các điểm nóng ở các căn cứ quân sự (6)
Mới đây, HCL lại hạ tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của họ xuống còn 190 ppt TCDD. Lý do của sự thay đổi nầy không được trình bày, nhưng nó là “tiêu chuẩn” mà HCL cần phải có để cho các căn cứ không quân Ðà Nẳng, Phù Cát, và Tân Sơn Nhứt được lọt vào danh sách những điểm nóng dioxin của họ, bởi vì nồng độ của dioxin trong đất/bùn ở các căn cứ nầy (269, 201, và 341 ppt Tổng TEQs (6)) thấp hơn tiêu chuẩn 350 ppt Tổng TEQs của BC.
Dù sao đi nữa, việc áp dụng tiêu chuẩn của BC dùng cho đất nông nghiệp, thổ cư và công viên để xác định các căn cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ là những điểm nóng dioxin thì không thích hợp về mặt kỹ thuật, nhất là đối với các căn cứ không quân Biên Hòa, Ðà Nẳng, Phù Cát và Tân Sơn Nhứt. Mục tiêu điều trị tạm thời của EPA dùng cho các khu thương mãi/kỹ nghệ (từ 5.000 đến 20.000 ppt Tổng TEQs) có vẻ thích hợp hơn.
Dữ kiện đất đáng nghi ngờ
Dữ kiện đất được HCL dùng để biện minh cho thuyết điểm nóng của họ dường như không đáng tin, không phù hợp, và không đầy đủ. Thật vậy, “thuyết điểm nóng Hatfield” dường như chỉ dựa trên một dữ kiện thực địa duy nhứt ở trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau (đó là nồng độ 901,2 ppt Tổng TEQs trong năm 1997). Nhưng dữ kiện nầy cũng không được kiểm chứng trong cuộc điều tra năm 1999, một cuộc điều tra được quy hoạch cẩn thận “…để khảo sát kỷ hơn phạm vi của những vấn đề có liên quan đến chất da cam trong thung lũng A Lưới.” (29) Vấn đề nghiêm trọng nhất đối với dữ kiện đất do HCL thu thập chính là sự vắng mặt “khó hiểu” của những địa điểm lấy mẩu. Thật vậy, vị trí chính xác của những mẩu đất/bùn do HCL thu thập trong các cuộc điều tra trong các năm 1996, 1997, và 1999 chưa hề được công bố (2, 29).
Dữ kiện đất được HCL dùng để xác định các “điểm nóng” khác cũng không khá hơn. “Các căn cứ Ranch Hand ở Biên Hòa và Ðà Nẳng là những thí dụ điển hình của các điểm nóng quan trọng. Một nồng độ TCDD trong đất ở Biên Hòa [không rõ vị trí] được ghi nhận lên đến 1,2 triệu phần ức (ppt) (Schecter et al., 2001). Tin tức mật do các khoa học gia Việt Nam cung cấp cho thấy mức độ dioxin trong đất ở Ðà Nẳng [không rõ vị trí] có thể lên đến vài trăm ngàn ppt.” (5)
Ở nơi nào không có dữ kiện tại chỗ (on-site soil data), HCL dùng dữ kiện đất “…được thu thập ở các địa điểm lấy mẩu ở gần mỗi căn cứ [!?]” để xác định các điểm nóng dioxin. “Các căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Ðà Nẳng, Phù Cát, và Biên Hòa có thể được xem như là những ‘điểm nóng’ dioxin quan trọng dựa trên nồng độ TCDD ghi nhận được trong vùng ‘hạ lưu’ của các địa điểm tình nghi là khu vực Ranch Hand. Các ‘địa điểm tình nghi chủ yếu’ nầy chưa được thử nghiệm trực tiếp trong nghiên cứu của chúng tôi vì không được phép của chánh quyền Việt Nam. Tuy nhiên, những trị số TCDD rất cao (Bảng 1) cho thấy sự quan hệ chặt chẽ của thuốc diệt cỏ da cam với mức độc hại tổng quát của các mẩu đất/bùn nầy, bởi vì TCDD là đặc tính của hợp chất dioxin có trong chất da cam.” (6)
Hơn thế nữa, dữ kiện đất được trình bày trong Bảng 1 rất đáng nghi ngờ vì nó không phù hợp với dữ kiện đã biết. Thí dụ như nồng độ trong đất ở Căn cứ Không quân Ðà Nẳng (<1-269 ppt Tổng TEQs) thì không phù hợp với kết quả thu thập trong năm 2003 (4,1 và 4,5 ppt Tổng TEQs), với tin tức mật của các khoa học gia Việt Nam (vài trăm ngàn ppt), và với trị số của Ủy ban 33 (10.000 ppt Tổng TEQs). Chi tiết của dữ kiện đất được ghi trong Bảng 1, kể cả bản đồ vị trí lấy mẩu, đã không được cung cấp mặc dù các vị trí nầy không nằm bên trong khu quân sự.
TÓM TẮT, KẾT LUẬN VÀ
ÐỀ NGHỊ
Năm 1998, HCL công bố cái gọi là “thuyết điểm nóng Hatfield” sau khi dioxin được tìm thấy ở nồng độ tương đối cao (901,2 ppt Tổng TEQs) trong một mẩu đất thu thập trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau cũ trong năm 1997. “Thuyết điểm nóng Hatfield,” được dùng làm “khuôn mẫu cho tình trạng ô nhiễm [TCDD] ở khắp miền Nam Việt Nam,” (6) cho rằng tất cả các căn cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ (căn cứ không quân, căn cứ hỏa lực, căn cứ hải quân, v.v.) ở miền Nam Việt Nam có thể được xem là các điểm nóng dioxin, đặc biệt là các căn cứ không quân chánh yếu như Tân Sơn Nhứt, Biên Hòa, và Ðà Nẳng, nơi một số lượng lớn thuốc diệt cỏ được vận chuyển, tồn trữ, và sử dụng. Mặc dù mức độ ô nhiễm dioxin trong vùng phụ cận của trại Lực lượng Ðặc biệt A Shau không được kiểm chứng qua cuộc điều tra bổ túc năm 1999, HCL vẫn duy trì lý thuyết của họ vì “căn cứ có thể ‘nóng’” mặc dù “’các địa điểm ô nhiễm chủ yếu’ chưa được xác định hoặc thử nghiệm [!]” và vì HCL đã “ấn định lại” tiêu chuẩn đất, chỉ còn 190 ppt TCDD (6).
Lạm dụng hóa chất nông nghiệp (39)
Tuy nhiên, dữ kiện và tin tức hiện có đường như không biện minh cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” HCL cho rằng TCDD ở Việt Nam phát xuất từ thuốc diệt cỏ (tức là chất da cam) được dùng trong chiến tranh Việt Nam; nhưng dữ kiện và tin tức mới nhất cho thấy TCDD có thể do các hóa chất nông nghiệp có chứa PCP hay do tiến trình thiêu đốt, nhất là việc thiêu đốt rác đô thị. Thật vậy, các mẩu tro thu thập trong năm 2003 từ một lò đốt rác y tế ở thành phố Hồ Chí Minh và các lò đốt rác đô thị ở Bình Hưng Hòa, thành phố Hồ Chí Minh và ở Phú Hòa, thành phố Vũng Tàu có nồng độ dioxins (số nhiều) thay đổi từ 184 ppt Tổng TEQs (trong đó có 6 ppt TCDD) đến 12.328 ppt Tổng TEQs (trong đó có 53 ppt TCDD) (30).
Thiêu đốt bừa bãi tại một nhà máy ở Củ Chi (40)
HCL dùng tiêu chuẩn đất 190 ppt TCDD do chính mình đặt ra để làm căn bản cho lý thuyết. Tiêu chuẩn nầy có vẻ “nguội” khi so sánh với 1.000 ppt Tổng TEQs của mục tiêu điều trị tạm thời của EPA và mức hành động của ATSDR dùng cho đất thổ cư, và có vẻ “lạnh” khi so sánh với 5.000-20.000 ppt Tổng TEQs của mục tiêu điều trị tạm thời của EPA và mức hành động của ATSDR dùng cho đất thương mãi/kỹ nghệ. Cho dù dữ kiện của HCL được xem là đáng tin cậy, không có một căn cứ không quân nào mà HCL đã tình nghi và điều tra có thể được xem như là một điểm nóng dioxin, nếu mục tiêu điều trị tạm thời của EPA và mức hành động của ATSDR (1.000 ppt Tổng TEQs) được dùng làm tiêu chuẩn đất.
Có một địa điểm có thể có khả năng biện minh cho “thuyết điểm nóng Hatfield.” Ðó là Tân cảng Sài Gòn, nơi mà hàng ngàn thùng 55-gallon đựng thuốc khai quang đã bị hư hại trong đợt Tổng công kích Tết Mậu Thân giai đoạn 2 vào tháng 5 năm 1968. Hàng chục ngàn gallons chất da cam có thể đã đổ tháo trên mặt đất. Mặc dù tai nạn đổ tháo thuốc khai quang nầy không được điều tra, Tân cảng Sài Gòn có lẽ không được ghi trong danh sách điểm nóng của Hatfield vì không có một thiệt hại hay ảnh hưởng nào được khai báo, mặc dù nó ở rất gần vùng đông dân cư nhất.
Dựa theo dữ kiện và tin tức mới nhất, chúng ta có thể kết luận rằng các
điểm nóng TCDD hay “các vấn đề dioxin,” theo lý thuyết của Hatfield
Consultants Ltd., có thể không hiện hữu ở Việt Nam. Nhưng Việt Nam có
lẽ đang đối diện với các vấn đề do PCDDs/PCDFs gây ra: “các vấn đề
dioxins.” Các hợp chất họ dioxin nầy không bắt nguồn từ chất da cam.
Các vấn đề dioxins nghiêm trọng hơn và càng ngày càng tồi tệ hơn. Thật vậy,
TCDD không tìm thấy trong một mẩu đất lấy ở Biên Hòa trong năm 2004,
nhưng PCDDs/PCDFs được tìm thấy ở nồng độ 121,5 ppt Tổng TEQs.
Trong một mẩu khác, TCDD được tìm thấy ở nồng độ 27,9 ppt trong khi PCDDs/PCDFs có nồng độ 548,5 ppt Tổng TEQs. Ðứng về mặt khoa học mà
nói, “các vấn đề dioxins” hiện nay ở Việt Nam cần phải được chú ý và cứu xét
nghiêm chỉnh hơn “các vấn đề dioxin,” trên bình diện quốc gia và quốc tế.
Mới đây, HCL được Ủy ban 33 yêu cầu thực hiện hai nghiên cứu cho một “điểm nóng” ở phi trường Ðà Nẳng. Các nghiên cứu nầy được Ford Foundation tài trợ. Mục đích của nghiên cứu thứ nhất, với ngân khoản 120.000 đô la Mỹ, là “nghiên cứu đặc tính di chuyển của một ‘điểm nóng’ dioxin ở phi trường Ðà Nẳng, lượng định các trường hợp tiếp nhiễm và đề nghị các biện pháp khắc phục khả thi.” Nghiên cứu thứ nhì, với ngân khoản 342.800 đô la Mỹ, để “lượng định ảnh hưởng đối với sức khỏe công cộng qua đất và dây chuyền thực phẩm ở một ‘điểm nóng’ dioxin ở phi trường Ðà Nẳng và đề nghị các biện pháp khắc phục ngay lập tức.” (38) Tuy nhiên, cái “điểm nóng” của hai nghiên cứu nầy dường như không hiện hữu vì dữ kiện và tin tức hiện có cho thấy nồng độ dioxin trong đất ở Căn cứ Không quân Ðà Nẳng hoặc chưa biết (chưa thử nghiệm bên trong căn cứ) hoặc rất thấp (dưới 5 ppt Tổng TEQs ở sát bên ngoài căn cứ (30)). Vì lý do đó, một chương trình công tác (work plan) phải được soạn thảo và công bố để lấy ý kiến một cách rộng rãi (trong nước và quốc tế) để xác định và định tính cái “điểm nóng” nầy. Kết quả định tính sẽ được dùng để xem hai nghiên cứu vừa nêu có cần thiết hay không.
Dựa theo dữ kiện và tin tức mới nhất, chúng ta có thể kết luận rằng các điểm nóng TCDD hay “các vấn đề dioxin,” mà HCL đã quan sát được trong suốt “hơn 12 năm nghiên cứu,” có thể không hiện hữu ở Việt Nam hiện nay. Nhưng có lẽ Việt Nam đang phải đối diện với nhiều vấn đề do PCDDs/PCDFs gây ra: “các vấn đề dioxins.” Chúng là các hợp chất họ dioxin từ các nguồn ô nhiễm không phải là chất da cam. Các vấn đề dioxins nầy nghiêm trọng hơn và càng ngày càng tồi tệ hơn. Thật vậy, TCDD không được tìm thấy trong một mẩu bùn lấy ở hồ Biên Hùng trong năm 2004 (SSM9), nhưng PCDDs/PCDFs được tìm thấy với nồng độ 121,5 ppt Tổng TEQs. Trong một mẩu khác (SSM8), nồng độ TCDD chỉ có 27,9 ppt trong khi nồng độ của PCDDs/PCDFs lên đến 548,5 ppt Tổng TEQs (30). Ðứng về mặt khoa học mà nói, “các vấn đề dioxins” hiện nay ở Việt Nam cần phải được chú ý và cứu xét nghiêm chỉnh hơn “các vấn đề dioxin,” trên bình diện quốc gia và quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Memorandum of Understanding. Meeting of the Vietnamese and United States Delegations in Follow-Up to the Joint Vietnam-US Scientific Conference on Human Health and Environmental Effects of Agent Orange/Dioxin. March 10, 2002. Hanoi, Vietnam. http://www.niehs.nih.gov/external/usvcrp/mou31002.pdf .
(2) Hatfield Consultants Ltd. and Vietnam 10-80 Committee. 1998. Preliminary Assessment of Environmental Impacts Related to Spraying of Agent Orange Herbicide during the Vietnam War. Volume 1: Report, Volume 2: Appendices. West Vancouver, Canada.
(3) L. Wayne Dwernychuk, et al. 2002. “Dioxin reservoirs in southern Viet Nam – A legacy of Agent Orange.” Chemosphere 47, 117-137.
(4) L. Wayne Dwernychuk, et al. March 2002. “Agent Orange/Dioxin Hot Spots – A legacy of U.S. Military Bases in Southern Viet Nam.” Presented at the Joint US – Vietnam Scientific Conference on Human Health and Environmental Effects of Agent Orange/Dioxin. Hanoi, Vietnam.
(5) L. Wayne Dwernychuk. 2005. “Short Communication, Dioxin hot spots in Vietnam.” Chemosphere 60, 998-999.
(6) Dwernychuk, LW, et al. August 2006. “The Agent Orange Dioxin Issue in Viet Nam: A Manageable Problem.” Presented at the 26th International Symposium on Halogenated Persistent Organic Pollutants. Oslo, Norway.
(7) HCL. December 4, 2006. “Hatfield Awarded Ford Foundation Grant for Agent Orange Study.” http://www.hatfieldgroup.com
(8) British Columbia (BC) Waste Management Act. 1996. Waste Management Act – Contaminated Sites Legislation. BC Regulations 375/96. Canada.
(9) Buckingham, William A., Jr. 1982. Operation Ranch Hand. The Air Forces and Herbicides in Southeast Asia 1961-1971. US Air Force, Office of Air Force History. Washington, D.C.
(10) West, Keith W. March 24, 1970. “Memorandum for: Chief of Chemical Operations, MACV J3-09. Subject: Herbicide Storage at Bien Hoa AB.” 12th SOS. Bien Hoa, Vietnam.
(11) Michael, E.D. April 29, 1970. “Memorandum for Record. Subject: Effects of Herbicide Spills at Bien Hoa Air Base.” Pacific Technical Analysts-Subsidiary. San Francisco, California.
(12) Moran, John. 31 October 1968. “Memorandum for: 7th Air Force, TACC. Attn: Lct Robert McCollester. Subject: Herbicide Damage to Vegetable Plots Vicinity Da Nang Air Base.” Chemical Operations Division. MACJ3-09.
(13) Corey, Jim. 25 March 1969.”Defoliant Damage in Da Nang City.” CORDS/NLD/ICTZ.
(14) US Military Assistance Command, Vietnam. 15 September 1969. Vietnam Lessons Learned No. 74: Accidental Herbicide Damage. MACVJ3-053.
(15) Darrow, Robert A., Reed C. Bunker, and J. Ray Frank. 23 September 1969. “Report of Trip to Republic of Vietnam, 15 August-2 September 1969.” Department of the Army. Frederick, Maryland.
(16) Bills, Ray W. 26 September 1969. “Memorandum for: III MAF Chemical Officer (Cpt Lott). Subject: Report of Investigation into Possible Herbicide Damage at Vietnamese Naval Compound at Da Nang.” Chemical Operations Division. MACJ3-09.
(17) US Department of the Army. 15 October 1981. “MACV Fixed Wing Aircraft Herbicide Incidents.” Alexandria, Virginia.
(18) Le Moine, Thomas F. “Newport Terminal: A Historical Overview of a US Army Port Facility Operated by the 71st Transportation Battalion.” US Army. Fort Eustis, Virginia. http://www.allanfurtado.com/newportterminal.html
(19) McNaught, David. “Page 31. David McNaught. Some Photos I took In and Around Newport Terminal.” http://www.allanfurtado.com/davidmcnaughtnewport.html
(20) Farris, Gregory M. “Page 40. Photos from Gregory M. Farris.” http://www.allanfurtado.com/gregoryfarris.html
(21) Krabbenhoeft, Alfred. “Pages 17-19. Photos from Al Krabbenhoeft.” http://www.allanfurtado.com/alfredkrabbenhoeft.html
(22) Morawa, Richard Allen. “Pages 53-54. Photos from Rich Morawa.” http://www.allanfurtado.com/richmorawanewport.html
(23) Fields, Timothy, Jr. April 13, 1998. “Memorandum on Approach for Addressing Dioxin in Soil at CERCLA and RCRA sites.” Office of Solid Waste and Emergency Response. U.S. Environmental Protection Agency. Washington, D.C.
(24) De Rosa, Christopher T., et al. August 21, 1997. Dioxin and Dioxin-Like Compounds in Soil, Part 1: ATSDR Interim Policy Guideline. Agency for Toxic Substances and Disease Registry, U.S. Department of Health and Human Services. Atlanta, Georgia.
(25) Horvath, Richard L. Undated. “Mystique of the Valley, Fall 1968 Rendezvous with Destiny Magazine.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(26) Aton, Bert and William Thorndale. Undated. A Shau Campaign, December 1968 – May 1969. Directorate Tactical Evaluation. CHECO Division. US Department of Air Forces.
(27) Reed, Raz. “Photos, Articles, and Maps of the A Shau Valley, Page 20.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(28) Wagoner, Larry. “Photos, Articles, and Maps of the A Shau Valley, Pages 16-17.” http://www.lcompanyranger.com/Ashau/ashauarticle2.htm
(29) HCL and 10-80 Committee. April 2000. Development of Impact Mitigation Strategies Related to the Use of Agent Orange Herbicide in the Aluoi Valley, Vietnam. HCL, West Vancouver, Canada; 10-80 Committee, Ha Noi, Vietnam.
(30) Mai, Tuan Anh. 2006. Sources and Fate of PCDDs and PCDFs in Rural and Urban Ecosystems and Food Chain in Southern Vietnam. Thèse No. 3446 (2005). École Polytechnique Fédérale de Lausanne. Lausanne, Belgium.
(31) Lê, Huân. July 13, 2006. “Tư vấn sức khỏe sinh sản cho nạn nhân chất độc dioxin: Mỏi mòn chờ đợi.” Báo Lao Ðộng. Hà Nội, Việt Nam.
(32) Schecter, A., Le Cao Dai, Oaf Papke, Joelle Prange, John D. Constable, Muneaki Matsuda, Vu Duc Thao, and Amanda L. Piskac. May 2001. “Recent Dioxin Contamination from Agent Orange in Residents of a Southern Vietnam City.” Journal of Occupational and Environmental Medicine. Volume 43, Number 5.
(33) Huỳnh Văn Mỹ. June 24, 2001. “Người bạn của những nạn nhân da cam.” Báo Lao Ðộng. Hà Nội, Việt Nam.
(34) Mai, Truyet T. May 2004. “Letters to the Editor – Food as a Source of Dioxin Exposure in the Residents of Bien Hoa City, Vietnam – Schecter et al.” Journal of Occupational and environmental Medicine. Volume 46, Number 5.
(35) Institute of Medicine. 2003. Dioxins and Dioxin-like Compounds in the Food Supply: Strategies to Decrease Exposure. National Academy Press. Washington, D.C.
(36) Wickham, Kenneth G.. 9 December 1969. “Operational Report – Lessons Learned, Headquarters, 101st Airborne Division, Period Ending 31 July 1969 (U).” Department of the Army. Washington, D.C.
(37) Schecter, A.J., J.J. Ryan, M. Gross, N.C.A. Weerasinghe, and J.D. Constable. 1986. “Chlorinated dioxins and dibenzofurans in human tissues from Viet Nam, 1983-84.”. Chlorinated Dioxins and Dibenzofurans in Perspective. C. Rappe, G. Choudhary, and L.H. Keith [editors]. Lewis Publishers. Ann Arbor, Michigan.
(38) http://www.fordfound.org/grants_db/view_grant_detail.cfm?grant_id=39336
(39) Ðỗ, Anh H. October 5, 2006. “Cẩn thận với thuốc trừ sâu.” Báo Sài Gòn Giải Phóng. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
(40) Quang Ðạt. November 31, 2006. “Xung quanh khu công nghiệp Tân Quy - Ðất, nước và không khí đều ô nhiễm.” Báo Sài Gòn Giải Phóng. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
http://anhduong.net/binhluan/Jun07/NMQ_DiemNongDioxinOVietNam.htm
lundi 4 juin 2007
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc1)
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc1)
Vietnam vows to honour commitments
China received further affirmation of Vietnam's commitments to keep peace and stability in the Beibu Bay and South China Sea during Premier Wen Jiabao's visit to the country.
In the joint communique released on Friday, both countries vowed to honour their commitments to the Beibu Bay Demarcation Agreement, the Beibu Bay Fishery Co-operation Agreement and the Declaration of the Conduct of Parties in the South China Sea, promising not to take any unilateral action that may further complicate or exacerbate the situation.
Reiterating their support for the principles of mutual understanding and give-and-take, the two neighbours agreed to avoid taking drastic military measures in implementing demarcation in the Beibu Bay.
They also pledged not to use force or threaten to use force in the agreed areas.
The previous two agreements were signed between China and Vietnam in December 2000 and officially came into effect as of June 30, 2004. The declaration was between China and the 10 members of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN).
On the land border issue, both sides agreed to speed up the process of delineating and placing markers and complete the delineation of the border on time.
On maritime rights, the two countries vowed to maintain negotiations and increase their frequency so as to seek a basic and long-term resolution which is acceptable to both, the document says.
"The communique shows the willingness of both sides to make the border a boundary of durable peace, friendship and stability," said an official source with the Chinese delegation.
Territorial disputes over the Sino-Vietnamese border consist of the demarcation of the land boundary, and the Beibu Bay as well as sovereignty of maritime rights and interests in the Nansha Islands and their adjacent waters. Both sides have agreed to resolve these problems through peaceful talks and consultations.
A joint working group was established in 1995 to negotiate the territorial issue of the disputed Nansha Islands. The two countries have agreed to seek a peaceful solution, and even co-operation on the Islands.
The two sides also reaffirmed the significance of building an ASEAN-China free trade zone in the communique.
China said it will support Vietnam in joining the 147-member World Trade Organization at an early date and hopes to complete negotiations with Vietnam soon.
Vietnam also promise not to apply three non-beneficial provisions that China accepted for its accession into the world trade body.
Vietnam also confirmed its commitment to the one-China policy, pledging not to develop official ties with Taiwan.
Source: China Daily
http://english.people.com.cn/200410/09/eng20041009_159430.html
Vietnam vows to honour commitments
China received further affirmation of Vietnam's commitments to keep peace and stability in the Beibu Bay and South China Sea during Premier Wen Jiabao's visit to the country.
In the joint communique released on Friday, both countries vowed to honour their commitments to the Beibu Bay Demarcation Agreement, the Beibu Bay Fishery Co-operation Agreement and the Declaration of the Conduct of Parties in the South China Sea, promising not to take any unilateral action that may further complicate or exacerbate the situation.
Reiterating their support for the principles of mutual understanding and give-and-take, the two neighbours agreed to avoid taking drastic military measures in implementing demarcation in the Beibu Bay.
They also pledged not to use force or threaten to use force in the agreed areas.
The previous two agreements were signed between China and Vietnam in December 2000 and officially came into effect as of June 30, 2004. The declaration was between China and the 10 members of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN).
On the land border issue, both sides agreed to speed up the process of delineating and placing markers and complete the delineation of the border on time.
On maritime rights, the two countries vowed to maintain negotiations and increase their frequency so as to seek a basic and long-term resolution which is acceptable to both, the document says.
"The communique shows the willingness of both sides to make the border a boundary of durable peace, friendship and stability," said an official source with the Chinese delegation.
Territorial disputes over the Sino-Vietnamese border consist of the demarcation of the land boundary, and the Beibu Bay as well as sovereignty of maritime rights and interests in the Nansha Islands and their adjacent waters. Both sides have agreed to resolve these problems through peaceful talks and consultations.
A joint working group was established in 1995 to negotiate the territorial issue of the disputed Nansha Islands. The two countries have agreed to seek a peaceful solution, and even co-operation on the Islands.
The two sides also reaffirmed the significance of building an ASEAN-China free trade zone in the communique.
China said it will support Vietnam in joining the 147-member World Trade Organization at an early date and hopes to complete negotiations with Vietnam soon.
Vietnam also promise not to apply three non-beneficial provisions that China accepted for its accession into the world trade body.
Vietnam also confirmed its commitment to the one-China policy, pledging not to develop official ties with Taiwan.
Source: China Daily
http://english.people.com.cn/200410/09/eng20041009_159430.html
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc2)
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc2)
China, Vietnam agree to speed up land border demarcation
China and Vietnam agreed Friday to speed up demarcation and erection of border markers along their land boundaries and to urge relevant departments and localities to work harder for strengthened mutual trust and sincere cooperation.
In a joint communique issued during Chinese Premier Wen Jiabao's official visit to Vietnam, the two sides expressed the hope that the work would be completed on schedule so the border can be turned into one of peace, friendship and cooperation between the two countries at an earlier date.
During the period of demarcation and erection of border markers, the communique said, the two sides would earnestly maintain the status quo and manage the borders in strict compliance with an interim protocol signed by the two governments in 1991.
The two sides spoke highly of the coming into force on June 30, 2004, of the Beibu Gulf Demarcation Agreement and the Beibu Gulf Fishery Cooperation Agreement, hailing it as a major event in Vietnam-China relations.
Both sides agreed that the two documents are conducive to the lasting order and stability in the Beibu Gulf region and are of major significance to the long and stable development of bilateral relations.
The two sides voiced satisfaction with the implementation of the two documents since their coming into force, stressing that both countries should continue working closely to carry out the accords strictly and in the spirit of mutual understanding and mutual accommodation, refraining from resorting to extreme and violent acts so as to safeguard peace and stability in the Beibu Bay and stay committed to long-term cooperation and happiness of both peoples.
The two countries agreed to abide by the consensus of top leaders of both countries as well as the tenets and principles as prescribed in the Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea, which was signed by China and members of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN).
The two sides must earnestly exercise restraint and refrain from taking any act that could complex or magnify disputes, the document said.
The two sides also emphasized that the maritime negotiation mechanism be continued with more talks, adhering to the pursuit of basic and lasting solutions acceptable to both sides through peaceful negotiations.
The two countries agreed to continue cooperation in less sensitive areas of common concern before disputes are resolved. They also agreed to explore expanded cooperation in other areas defined by both sides.
The Vietnamese government reiterated its resolute adherence to the one-China policy and repeated its support for China's great cause of reunification. Vietnam said it would only maintain non-official economic and trade ties with Taiwan and would not develop any official relations with it.
The two sides agreed to continue their cooperation and coordination in multilateral forums such as the United Nations, the ASEAN, Asia-Pacific Economic Cooperation, the Asia-Europe Meeting, and the development of the greater Mekong River Delta.
The two sides vowed to remain committed to establishing a fair and just new international political and economic order and to contributing to safeguarding regional and global peace, stability and development.
Development of bilateral ties hailed
The two coutries also agreed that bilateral ties have developed rapidly, comprehensively and profoundly under the 16-character guiding principle of "long-term stability, future orientation, good-neighborly friendship, and all-round cooperation."
In the joint communique, the two sides said leaders of both countries have exchanged frequent visits with strengthened political mutual trust, marked results in economic and trade cooperation, and positive progress in the resolution of problems left over by history.
Exchanges and cooperation in other fields have also been expanding with each passing day, and the two sides have supported and coordinated with each other in international and regional affairs.
Wen, who arrived here Wednesday, has had an in-depth exchange of views with Vietnamese leaders on bilateral ties and international and regional issues of common concern in a cordial, friendly and pragmatic atmosphere, the communique said.
Against a backdrop of profound changes in international affairs, maintaining the lasting stability, and sound and smooth development ties between the two countries accords with the fundamental interests of both countries and peoples, the document said, adding that the two countries share common strategic interest in many major issues.
The governments of the two countries vowed to continue sticking to the 16-character principle, carry forward traditional friendship, open up mutually beneficial cooperation and address sensitive issues in a timely manner, so as to incessantly push bilateral ties to new and higher levels, the document said.
The two sides agreed to go on maintaining high-level contacts and strengthen friendly exchanges between various departments, localities, and non-governmental organizations so as to earnestly put into effect the cooperation documents between diplomatic, defense and law enforcement departments of the two countries.
They also pledged to deepen comprehensive cooperation and encourage and support pragmatic cooperation in economy and trade, science and technology, education, culture and other fields in search of broader common interest.
On trade, the two sides expressed satisfaction with the major progress achieved in bilateral trade and economic cooperation, vowing to increase their trade to 10 billion US dollars by 2010. The two sides also agreed to explore the feasibility of establishing an economic corridor along the border regions and a pan-Beibu Bay economic sphere.
China and Vietnam will strengthen the exchange of experience and practice in managing the party and running the country and further deepen the communication between the two countries' younger generations, the document said.
By People's Daily Online
http://english.people.com.cn/200410/09/eng20041009_159438.html
China, Vietnam agree to speed up land border demarcation
China and Vietnam agreed Friday to speed up demarcation and erection of border markers along their land boundaries and to urge relevant departments and localities to work harder for strengthened mutual trust and sincere cooperation.
In a joint communique issued during Chinese Premier Wen Jiabao's official visit to Vietnam, the two sides expressed the hope that the work would be completed on schedule so the border can be turned into one of peace, friendship and cooperation between the two countries at an earlier date.
During the period of demarcation and erection of border markers, the communique said, the two sides would earnestly maintain the status quo and manage the borders in strict compliance with an interim protocol signed by the two governments in 1991.
The two sides spoke highly of the coming into force on June 30, 2004, of the Beibu Gulf Demarcation Agreement and the Beibu Gulf Fishery Cooperation Agreement, hailing it as a major event in Vietnam-China relations.
Both sides agreed that the two documents are conducive to the lasting order and stability in the Beibu Gulf region and are of major significance to the long and stable development of bilateral relations.
The two sides voiced satisfaction with the implementation of the two documents since their coming into force, stressing that both countries should continue working closely to carry out the accords strictly and in the spirit of mutual understanding and mutual accommodation, refraining from resorting to extreme and violent acts so as to safeguard peace and stability in the Beibu Bay and stay committed to long-term cooperation and happiness of both peoples.
The two countries agreed to abide by the consensus of top leaders of both countries as well as the tenets and principles as prescribed in the Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea, which was signed by China and members of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN).
The two sides must earnestly exercise restraint and refrain from taking any act that could complex or magnify disputes, the document said.
The two sides also emphasized that the maritime negotiation mechanism be continued with more talks, adhering to the pursuit of basic and lasting solutions acceptable to both sides through peaceful negotiations.
The two countries agreed to continue cooperation in less sensitive areas of common concern before disputes are resolved. They also agreed to explore expanded cooperation in other areas defined by both sides.
The Vietnamese government reiterated its resolute adherence to the one-China policy and repeated its support for China's great cause of reunification. Vietnam said it would only maintain non-official economic and trade ties with Taiwan and would not develop any official relations with it.
The two sides agreed to continue their cooperation and coordination in multilateral forums such as the United Nations, the ASEAN, Asia-Pacific Economic Cooperation, the Asia-Europe Meeting, and the development of the greater Mekong River Delta.
The two sides vowed to remain committed to establishing a fair and just new international political and economic order and to contributing to safeguarding regional and global peace, stability and development.
Development of bilateral ties hailed
The two coutries also agreed that bilateral ties have developed rapidly, comprehensively and profoundly under the 16-character guiding principle of "long-term stability, future orientation, good-neighborly friendship, and all-round cooperation."
In the joint communique, the two sides said leaders of both countries have exchanged frequent visits with strengthened political mutual trust, marked results in economic and trade cooperation, and positive progress in the resolution of problems left over by history.
Exchanges and cooperation in other fields have also been expanding with each passing day, and the two sides have supported and coordinated with each other in international and regional affairs.
Wen, who arrived here Wednesday, has had an in-depth exchange of views with Vietnamese leaders on bilateral ties and international and regional issues of common concern in a cordial, friendly and pragmatic atmosphere, the communique said.
Against a backdrop of profound changes in international affairs, maintaining the lasting stability, and sound and smooth development ties between the two countries accords with the fundamental interests of both countries and peoples, the document said, adding that the two countries share common strategic interest in many major issues.
The governments of the two countries vowed to continue sticking to the 16-character principle, carry forward traditional friendship, open up mutually beneficial cooperation and address sensitive issues in a timely manner, so as to incessantly push bilateral ties to new and higher levels, the document said.
The two sides agreed to go on maintaining high-level contacts and strengthen friendly exchanges between various departments, localities, and non-governmental organizations so as to earnestly put into effect the cooperation documents between diplomatic, defense and law enforcement departments of the two countries.
They also pledged to deepen comprehensive cooperation and encourage and support pragmatic cooperation in economy and trade, science and technology, education, culture and other fields in search of broader common interest.
On trade, the two sides expressed satisfaction with the major progress achieved in bilateral trade and economic cooperation, vowing to increase their trade to 10 billion US dollars by 2010. The two sides also agreed to explore the feasibility of establishing an economic corridor along the border regions and a pan-Beibu Bay economic sphere.
China and Vietnam will strengthen the exchange of experience and practice in managing the party and running the country and further deepen the communication between the two countries' younger generations, the document said.
By People's Daily Online
http://english.people.com.cn/200410/09/eng20041009_159438.html
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc1b)
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc1b)
China, Vietnam to Finish Demarcation Task in 2008
Adjust font size:
China and Vietnam have agreed to finish tracing the border between the two countries in 2008, said a joint press communiqué issued by the two countries on Friday.
The communiqué said China and Vietnam will cooperate closely to ensure partial demarcation is finished in 2007 and the demarcation of the entire border in 2008.
The two countries will sign a new border administration system document once demarcation is complete, said the communiqué.
China and Vietnam started the task of defining their 1,300 kilometer of land border in 2002 and so far 13 rounds of government-level negotiations on border issue have been held.
The communiqué also said the two countries will implement the agreement on the Beibu Gulf and fishery cooperation in the Gulf, and speed up implementation of the agreement on Beibu Gulf oil and gas cooperation.
On the South China sea issue, the communiqué said the two countries agree not to take actions that might complicate the conflict and agree to negotiate peacefully in the interests of a lasting settlement accepted by both sides.
The communiqué was issued during Vietnamese President Nguyen Minh Triet's state visit to China from May 15 to 18. During his stay here, Nguyen held talks with his Chinese counterpart Hu Jintao and met with top legislator Wu Bangguo, Premier Wen Jiabao and top political advisor Jia Qinglin.
(Xinhua News Agency May 19, 2007)
http://www.china.org.cn/english/news/211281.htm
China, Vietnam to Finish Demarcation Task in 2008
Adjust font size:
China and Vietnam have agreed to finish tracing the border between the two countries in 2008, said a joint press communiqué issued by the two countries on Friday.
The communiqué said China and Vietnam will cooperate closely to ensure partial demarcation is finished in 2007 and the demarcation of the entire border in 2008.
The two countries will sign a new border administration system document once demarcation is complete, said the communiqué.
China and Vietnam started the task of defining their 1,300 kilometer of land border in 2002 and so far 13 rounds of government-level negotiations on border issue have been held.
The communiqué also said the two countries will implement the agreement on the Beibu Gulf and fishery cooperation in the Gulf, and speed up implementation of the agreement on Beibu Gulf oil and gas cooperation.
On the South China sea issue, the communiqué said the two countries agree not to take actions that might complicate the conflict and agree to negotiate peacefully in the interests of a lasting settlement accepted by both sides.
The communiqué was issued during Vietnamese President Nguyen Minh Triet's state visit to China from May 15 to 18. During his stay here, Nguyen held talks with his Chinese counterpart Hu Jintao and met with top legislator Wu Bangguo, Premier Wen Jiabao and top political advisor Jia Qinglin.
(Xinhua News Agency May 19, 2007)
http://www.china.org.cn/english/news/211281.htm
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc2b)
Trung Cộng - CSVG Cắm Cột Mốc Biên Giới 2008 (tc2b)
Vietnamese President: Border issues no hindrance to Vietnam-China ties
www.chinaview.cn 2007-05-18 21:22:35
Adjust font size:
BEIJING, May 18 (Xinhua) -- Vietnamese President Nguyen Minh Triet said on Friday before concluding his China visit that border issues will never pose an obstacle to overall Vietnam-China relations.
"We have reached consensus with the Chinese side on many aspects of the border issues, and we have agreed to maintain dialogue and consultation in order to seek full solutions to the issues," Triet told Chinese reporters in a group interview, but gave no further details about the solutions.
China and Vietnam signed a historic land boundary treaty in 1999 after about two decades' negotiation.
The treaty, which took effect in 2000, defined the border orientation between the two countries. Since then the two sides have been preparing a survey and getting ready to pose border markers.
During a visit by Chinese President Hu Jintao to Vietnam last year, the two countries issued a joint statement, agreeing to speed up the process of land border demarcation and work closely to ensure that the work is finished and a new border administration document signed by 2008 on schedule.
There is a long-standing tradition of friendship between the two parties, governments and peoples and this is a "significant" foundation for the two countries to work from, Triet said.
It is Triet's first official visit to China since he took office in June 2006.
During his meeting with President Hu Jintao on Wednesday, Triet said that Vietnam is keen to develop relations between the border provinces, so as to create peace, friendship and common development in the frontier area.
As a member of the the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN), Vietnam can serve as a bridge for promoting relations between China and the ASEAN, Triet said, adding that the Vietnamese government is "happy to see the development of China-ASEAN ties".
Triet returned to Vietnam Friday afternoon after a four-day visit.
Editor: Xiao Jie
http://news.xinhuanet.com/english/2007-05/18/content_6120424.htm
Vietnamese President: Border issues no hindrance to Vietnam-China ties
www.chinaview.cn 2007-05-18 21:22:35
Adjust font size:
BEIJING, May 18 (Xinhua) -- Vietnamese President Nguyen Minh Triet said on Friday before concluding his China visit that border issues will never pose an obstacle to overall Vietnam-China relations.
"We have reached consensus with the Chinese side on many aspects of the border issues, and we have agreed to maintain dialogue and consultation in order to seek full solutions to the issues," Triet told Chinese reporters in a group interview, but gave no further details about the solutions.
China and Vietnam signed a historic land boundary treaty in 1999 after about two decades' negotiation.
The treaty, which took effect in 2000, defined the border orientation between the two countries. Since then the two sides have been preparing a survey and getting ready to pose border markers.
During a visit by Chinese President Hu Jintao to Vietnam last year, the two countries issued a joint statement, agreeing to speed up the process of land border demarcation and work closely to ensure that the work is finished and a new border administration document signed by 2008 on schedule.
There is a long-standing tradition of friendship between the two parties, governments and peoples and this is a "significant" foundation for the two countries to work from, Triet said.
It is Triet's first official visit to China since he took office in June 2006.
During his meeting with President Hu Jintao on Wednesday, Triet said that Vietnam is keen to develop relations between the border provinces, so as to create peace, friendship and common development in the frontier area.
As a member of the the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN), Vietnam can serve as a bridge for promoting relations between China and the ASEAN, Triet said, adding that the Vietnamese government is "happy to see the development of China-ASEAN ties".
Triet returned to Vietnam Friday afternoon after a four-day visit.
Editor: Xiao Jie
http://news.xinhuanet.com/english/2007-05/18/content_6120424.htm
Chuyện đời thành tiểu thuyết - Tiểu thuyết thành chuyện phim Ngàn Giọt Lệ Rơi
30 tháng Tư - 31 năm sau: Chuyện đời thành tiểu thuyết - Tiểu thuyết thành chuyện phim Ngàn Giọt Lệ Rơi
Giao Chỉ
San Jose 2006
Lời nói đầu: Sau 30 năm cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam đã có nhiều hoàn cảnh éo le trong cuộc sống. Cuộc binh đao giữa hai miền Nam Bắc, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đưa đến cảnh gia đình chia cắt. Câu chuyện được ghi lại lần này là một nhà chia đôi ngả. Cha và con trai theo miền Bắc. Mẹ và 5 con theo miền Nam. Câu chuyện thật và đầy đủ tình tiết để dựng nên một cuốn phim làm di sản cho đời sau.
Phim ảnh Hoa Kỳ thường hay phỏng theo các cuốn tiểu thuyết hoặc ký sự dựa theo chuyện có thật đã xảy ra.
Nếu người Việt chúng ta làm một cuốn phim tại hải ngoại để có thị trường phải là phim nói Anh ngữ, có cái vai Mỹ ố Việt, tình tiết éo le, hấp dẫn, pha chút màu sắc điệp viên với các giây phút lo sợ kịch tính. Đồng thời có những lúc vai chính phải ray rứt nội tâm. Màn ảnh chiếu gần, diễn tả bằng nét mặt.
Sự lựa chọn giữa lý tưởng và bổn phận của các vai chính làm cho chuyện phim đóng mở, lôi cuốn khán giả. Nội dung cần có cơ hội để lấy ngoại cảnh từ Việt Nam, Nhật Bản, Hạ Uy Di, Hoa kỳ và Âu châu.
Vai chính đi từ những phân cảnh của gia đình Việt Nam trong chiến tranh đến các buổi tiếp tân của ngoại giao đoàn tại các quốc gia Tây phương. Từ các phòng ăn tráng lệ tại các câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ cho đến các chiến khu ở rừng già Nam Bộ. Từ văn phòng của bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam đến cơ sở tình báo của Hải quân trong Ngũ Giác Đài. Một chuyện phim như thế mà phỏng theo một câu chuyện hồi ký có thực thì vô cùng lý thú. Có thể tìm thấy không? Trên thực tế chuyện này đã xảy ra.
Chúng ta có thể tìm được câu chuyện tình tiết như vậy với nội dung bao gồm cuộc chiến Quốc Cộng giữa Việt Nam với Việt Nam. Giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Câu chuyện gián điệp thực sự xảy ra đã được kể trong cuốn hồi ký của một phụ nữ. Người đàn bà viết cuốn sách này tên là Đặng Mỹ Dung và cuốn sách này tựa đề là Ngàn Giọt Lệ Rơi. Nguyên tác Anh ngữ là A Thousand Tears Falling. Bà Yung Krall sáng tác theo thể tự truyện dựa vào cuộc đời của cha mẹ rồi đến chính cuộc đời của tác giả. Tất cả mọi danh tính đều giữ nguyên như là một sử liệu.
Dựa theo tác phẩm này, chúng tôi viết bản phác họa cho một cuốn phim tương lai của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Đây là phim truyện về một người chủ gia đình theo kháng chiến rồi đi tập kết 54 trở thành nhân viên cao cấp trong chính phủ cộng sản. Người vợ ở lại miền Nam trong vùng quốc gia rồi di tản qua Hoa Kỳ. Bà đã từ chối không về sống với chồng ở Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, con cái mỗi người theo một ngả.
Tiếp theo cuộc chiến Quốc Cộng tiếp tục bàn giao cho thế hệ thứ hai. Tác giả là con gái trong gia đình đã thành hôn với một sĩ quan hải quân Mỹ. Trong hoàn cảnh éo le, cô gái đã trở thành gián điệp nhị trùng. Một bên là cha ruột, một bên là chồng. Đứng giữa hai phe thù nghịch nhưng tác giả thực sự làm việc cho phía Hoa Kỳ. Đã góp phần phá vỡ âm mưu của Hà Nội cài người vào Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Đốn.
Chuyện thật đã xảy ra tại Mỹ vào cuối thập niên 70.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phe quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ thường bị phía cộng sản cài người nằm thật sâu vào các cơ quan của ta nhưng phe ta chưa hề có được những đòn gián điệp đáng kể lừa được đối phương.
Câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi là một biệt lệ đặc biệt cần được biết đến, cần được nhắc lại và cần được đóng thành phim.
Cảm khích với nội dung của tác phẩm, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị sau đây là câu chuyện về một cuốn phim tương lai, nhân dịp 31 năm sau kể từ tháng 4-1975.
Phác Họa Chuyện Phim "Ngàn Giọt Lệ Rơi"
"A thousand Tears Falling" bắt đầu từ ngoại cảnh tại Nhật Bản. Thời gian lúc đó là tháng 6-1975, không gian là tại phòng tiếp tân của đại khách sạn Nhật Bản tại Đông Kinh. Tại đây, một hội nghị quốc tế với các nước Đông Nam Á đang diễn ra. Ông Đặng Văn Minh là trưởng phái đoàn của nước cộng sản Việt Nam vừa chiến thắng Sài Gòn 2 tháng trước, đến dự hội nghị với niềm tự hào và được sự lưu ý của báo chí thế giới.
Tuy nhiên, cũng vào chiều hôm đó tại Đông Kinh, người cán bộ cao cấp của phe cộng sản gặp lại con gái sau 23 năm xa cách.
Từ hình ảnh trong đại sảnh của khách sạn quốc tế tại Tokyo, phía trước treo cờ các nước dự hội nghị có cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh vị trưởng phái đoàn rạng rỡ tươi cười mở đầu cuốn phim để tiếp đến hình ảnh chiến khu với cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Ông Minh sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, đi theo Kháng Chiến và trở thành nhân viên cao cấp của Mặt Trận. Năm 1954, ông dẫn con trai lớn là Đặng Văn Khôi ra Bắc. Vợ ông Minh là bà Trần Thị Phàm và 5 con nhỏ ở lại miền Nam. Khi chia tay hẹn 2 năm trở lại nhưng thật sự phải hơn 20 năm sau người cộng sản mới vào được Sài Gòn thì lúc đó đã biết bao nhiêu vật đổi sao rời.
Người con trưởng theo bố ra Bắc đã trở thành sĩ quan ưu tú của quân đội nhân dân được gửi đi Nga học về hỏa tiễn phòng không năm 1968.
Đến năm 1975, ông Minh trong khi vẫn một lòng trung thành với chế độ và trở nên cán bộ cao cấp ngành ngoại giao thì người con trưởng Đặng Văn Khôi có thái độ chống chiến tranh nên đã bị sa thải khỏi quân đội miền Bắc.
Tại miền Nam, người con trai thứ của ông bà là Đặng Hải Vân, lúc ông tập kết chỉ có 5 tuổi sau này đã trở thành phi công của Không Quân Cộng Hòa. Nhưng không may Hải Vân đã bị thiệt mạng trong một phi vụ bay huấn luyện tại Hoa Kỳ lúc 21 tuổi. Chị Đặng Mỹ Dung là con thứ tư của ông bà đã thành hôn với đại úy phi công của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn và năm 75 gia đình sống tại Hawaii.
Cuộc sống thơ mộng và bình yên của ông Krall và bà Mỹ Dung hoàn toàn thay đổi từ tháng 4-1975.
Cũng vào tháng 4-1975, lúc đó cha của bà Dung là ông Minh đang làm đại sứ cộng sản Hà Nội tại Nga Sô, mẹ của bà và đứa em út thì kẹt ở Sài Gòn.
Với bao năm xa cách, với quan niệm về cuộc sống khác biệt, bà Phàm vợ ông Minh không hề có ý muốn ở lại Sài Gòn để chờ đoàn tụ với chồng. Đặng Mỹ Dung liền yêu cầu thiếu tá Krall tìm cách về Sài Gòn đón gia đình bà qua Mỹ.
Khi ông Krall qua Sài Gòn đã lâu mà chưa có tin tức gì. Tại Hawaii, bà Đặng Mỹ Dung lo sợ đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại cầu cứu với đề đốc Gaylor, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng.
Lời nói chỉ vắn tắt báo cáo chuyện chồng bà về Sài Gòn để lo cứu gia đình sao chưa thấy qua, nhưng bà nói thêm một tin tức động trời bà là con gái của đại sứ cộng sản Việt Nam tại Mạc Tư Khoa.
Lập tức guồng máy quân báo của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển động và cả FBI lẫn CIA nhập cuộc.
Hệ thống tình báo Mỹ ghi nhận ngay đây là một đầu mối vô cùng quan trọng mà tại sao lâu nay không ai biết. Ngay cả lúc hồ sơ thành hôn của vị sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không ai lưu ý đến mối liên hệ huyết tộc quan trọng của cô dâu nước Mỹ có đầu mối Hà Nội. Họ cứ tưởng đây là cô gái thuần túy Sài Gòn.
Tiếp theo khi chuyến bay chở mẹ và em gái út của Đặng Mỹ Dung ra khỏi Việt Nam do CIA Sài Gòn trực tiếp sắp đặt thì một khế ước bất thành văn đã bắt đầu. Mỹ Dung nợ khối tình báo Mỹ một yêu cầu. Cuộc đời điệp viên khởi sự.
Khi bà Minh đã yên ổn tại Hoa Kỳ thì hơn 60 ngày sau Mỹ Dung dắt con nhỏ qua Nhật Bản thăm thân phụ đã hơn 20 năm xa cách. Guồng máy tình báo của thế giới tự do mở chiến dịch để Con Chim Xanh với Ngàn Giọt Lệ lên đường công tác. Bây giờ xin mời khán giả trở lại Đông Kinh của tháng 6-1976.
Cánh cửa phòng họp riêng của đại sảnh Tokyo hé mở, một cán bộ ngoại giao của Hà Nội bước vào trình với thủ trưởng Đặng Quang Minh: "Thưa đồng chí thủ trưởng, bà Việt kiều ở Mỹ và đứa con lai đã có hẹn xin vào gặp."
Ông Minh vẫn còn đang xem hồ sơ hội nghị, nói mà không nhìn lên: "Đây là đại diện Hội Việt Kiều Yêu Nước đến để động viên và mừng đất nước thống nhất. Đồng chí mời vào đi."
Đặng Lệ Dung bước vào cùng con gái nhỏ nép một bên. Hơn 20 năm qua, lúc thân phụ ra đi, cô là đứa bé con. Giờ đây, đứa cháu ngoại lai Mỹ xinh đẹp của ông mắt mở to nhìn người đàn ông xa lạ mà e ngại.
Cuộc gặp gỡ riêng tư nhưng hết sức khách sáo. Cả cha con đều phải đóng kịch dù rằng trong lòng như lửa đốt.
Trước khi chia tay, ông Minh nói nhỏ với con gái là sẽ thu xếp để gặp lại người vợ cũ là bà Phàm đã hiện di tản qua Hoa Kỳ.
Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên vào tháng 6-1975, cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị, tình báo và ngoại giao giữa hai cha con bắt đầu. Một bên là Việt Nam cộng sản đã thống nhất và một bên là guồng máy tình báo Hoa Kỳ. Cả hai bên đều tìm cách mua chuộc lẫn nhau. Cuốn phim Ngàn Giọt Lệ Rơi thực sự sẽ có cả hàng trăm phân cảnh hết sức độc đáo để dàn dựng.
Thủ trưởng Đặng Quang Minh về báo cáo lên bộ chính trị và được đồng ý cho phép qua Paris gặp lại vợ con. Ông dự trù sẽ thuyết phục để đưa vợ con trở về Hà Nội dưới hình thức chiến thắng ngoại giao sau khi tuyên bố là gia đình ông ở Sài Gòn đã bị Hoa Kỳ áp đảo bắt phải di tản. Hà Nội chắc chắn một lần nữa sẽ đạt được một thành tích đánh bại Hoa Kỳ trên diễn đàn dư luận quốc tế.
Phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Đốn đã cho phép CIA giúp đỡ hai mẹ con bà Minh qua Pháp để bắt nhịp cầu làm việc trực tiếp với tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris. Tình báo Mỹ chấp nhận nhập cuộc.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính trị giữa cộng sản và Hoa Kỳ đã trở thành một mối xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Đặng, vượt ra khỏi tầm tay của những thế lực đằng sau từ cả hai bên.
Ông Minh hết lòng thuyết phục bà vợ tao khang trở về với một đất nước nay đã thanh bình, độc lập, thống nhất và hoàn toàn chiến thắng. Ông thề thốt lấy cả cuộc đời ra để bảo đảm cho sự an toàn của bà và người con út cùng đi với bà.
Nhưng bà Minh vẫn còn dè đặt và sau cùng quyết định ở lại Hoa Kỳ. Một quyết định sáng suốt mà ngày nay bà vẫn cho là hết sức may mắn.
Trong thời gian đó, phe cộng sản hết lòng chiều chuộng móc nối với Đặng Mỹ Dung với hy vọng cô sẽ thuyết phục bà mẹ. Và hơn nữa, dù bà Minh chưa muốn về Hà Nội nhưng Mỹ Dung với ảnh hưởng sẵn có trong quân đội Mỹ, có thể dễ dàng trở thành một nguồn tin đáng giá và tốt nhất là chuyển hộ các tài liệu trên đường hàng không từ Hoa Thịnh Đốn qua Paris. Con Chim Xanh của Ngàn Giọt Lệ Rơi luôn luôn sẵn sàng hợp tác như là người cảm tình với phe chiến thắng mà thân phụ của cô cũng góp phần.
Dần dân Mỹ Dung gián tiếp trở thành một phụ nữ Việt Nam yêu nước kết hôn với người Mỹ những vẫn hồn nhiên đóng góp công tác cho chính phủ Hà Nội và các tổ chức thân Cộng. Cũng vào thời điểm đó, sinh viên thân cộng Trương Đình Hùng là con của luật sư Trương Đình Dzu đang hoạt động cho tình báo cộng sản. Hùng du học Mỹ trước 1975 và tiếp tục ở lại Hoa Kỳ móc nối lấy tin tức từ Bộ Ngoại Giao. Hùng rất tin tưởng ở sự thân hữu chặt chẽ của Mỹ Dung với Hà Nội và tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Pháp.
Ronald Humphrey là nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phép đọc tài liệu tối mật.
Lúc còn ở Việt Nam, Humphrey lấy cháu gái Võ Thị Định, một nữ cán bộ quân sự của Giải Phóng Miền Nam. Hà Nội đưa điều kiện nếu Ronald muốn cho phép đem vợ qua Mỹ phải lấy hồ sơ mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ trao cho Trương Đình Hùng.
Trương Đình Hùng nhờ Đặng Mỹ Dung chuyển tài liệu cho cộng sản qua tòa đại sứ Việt Nam tại Paris đưa tài liệu cho Việt cộng. Tài liệu Humphrey đưa ra qua tay Hùng đến Mỹ Dung thì CIA đổi thành tài liệu giả để chuyển qua Pháp. Khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định truy tố Trương Đình Hùng và Humphrey thì cần có Mỹ Dung ra làm nhân chứng. Nếu như thế là cuộc đời gián điệp sẽ chấm dứt và đồng thời bà chấp nhận mọi rủi ro thách đố về sau.
Đây là một quyết định khó khăn đối với một phụ nữ. Lần đưa mẹ ra khỏi Việt Nam, Mỹ Dung đã phải trả giá bằng cách bước vào con đường chông gai của nữ điệp viên. Lần này lại thêm một thử thách mới.
Sau cùng Mỹ Dung yêu cầu chính phủ Mỹ phải cam kết đưa cha và anh bà được vào Mỹ, trước khi phiên tòa bắt đầu.
Việc này sẽ được thu xếp trước khi vụ gián điệp tại Bộ Ngoại Giao được chuyển qua tòa án. Hồ sơ cam kết mật đưa lên tổng thống Carter xin chấp thuận. Guồng máy tình báo Hoa Kỳ lại mở chiến dịch mới.
Bà Mỹ Dung viết thư cho Lê Duẩn, tổng thư ký và Nguyễn Duy Trinh bộ trưởng ngoại giao Hà Nội xin cho cha là Đăng Quang Minh qua London gặp gia đình vợ con vì bà Minh bị bệnh nan y có thể chết.
Giáng Sinh năm 1977, Hà Nội chấp thuận cho ông Minh xuất ngoại. Trong hai tuần lễ bên cha, cả hai chị em bà Mỹ Dung thuyết phục ông Minh đi Mỹ nhưng không thành công.
Cuộc tranh luận, phân giải trong gia tộc với nghĩa phu thê, và tình cha con của một gia đình Quốc Cộng đã kéo dài suốt mùa Giáng Sinh tại thủ đô sương mù London năm 1977. Ông Minh đã dành cả cuộc đời đi theo con đường của ông, đêm nằm trằn trọc cùng phòng với đứa cháu ngoại thân yêu. Bà Minh suốt thời gian nghe con gái và chồng tranh luận mệt nhoài nên đã nói những lời sau cùng trước khi chia tay đôi ngả. Bà yêu cầu chồng và các con từ nay chấm dứt tranh luận, cãi cọ qua lại về chính trị, về chủ thuyết, và tương lai. Hãy ngồi với nhau lần cuối trong tình huyết tộc rồi đường ai nấy đi.
Cuộc chia tay của hai phe đấu tranh chiến tranh chính trị trong một gia đình bây giờ chỉ còn toàn nước mắt của "Ngàn giọt lệ rơi."
Sau cuộc họp mặt Giáng Sinh lịch sử 1977 của gia đình họ Đặng, Hoa Kỳ quyết định đưa vụ án ra ánh sáng. Chính phủ Mỹ truy tố Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey mỗi người bị tù 15 năm. Cả hệ thống ngoại giao của cộng sản Hà Nội bị lung lay, rung động từ đại sứ Đinh Bá Thi tại Liên Hiệp Quốc cho đến đại sứ Đặng Văn Sung tại Paris.
Câu chuyện gián điệp nữ Đặng Mỹ Dung được viết lại thành ký sự bằng Anh ngữ nhưng CIA đã yêu cầu bỏ đi gần 200 trang trước khi in. Một ngày nào đó bản Việt ngữ sẽ phát hành đầy đủ hơn để chúng ta biết rõ về một gia đình Quốc Cộng đã chia ly, đoàn tụ và vĩnh biệt ra sao.
Về sau ông Đặng Quang Minh sống độc thân tại Hà Nội, thỉnh thoảng đi thăm mộ con trai là thiếu úy Đặng Hải Vân của KQVNCH tại miền Nam. Ông mất năm 1986, hưởng thọ được 77 tuổi.
Đặng Văn Khôi, người con trai lớn theo ông tập kết ra Bắc có đến chào cha trước khi vượt biên, hiện sống ở miền Đông Hoa Kỳ. Từ một sĩ quan của đơn vị phòng không quân đội nhân dân đã du học bên Nga, nay ông trở thành người tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông sống độc thân, năm nay 67 tuổi.
Bà Minh sống với vợ chồng Đặng Mỹ Dung đã về hưu. Khi được tin chồng chết, bà không muốn về chịu tang dưới nghi lễ của đảng cộng sản. Một lòng kiên quyết, bà muốn để cho chồng đi trọn con đường ông lựa chọn.
Ông chết trong lòng đất quê hương, nơi có mộ phần của con trai ông là sĩ quan miền Nam. Bà Minh qua đời khi nước Mỹ bước vào thế kỷ thứ 21. Có thể ông bà đã cùng đứa con trai đoàn tụ ở một nơi không còn khác biệt về ý thức hệ.
Cuốn sách A Thousand Tears Falling hiện được một số giáo sư Hoa Kỳ dùng để dạy cho các trường trung học. Còn cuốn phim A Thousand Tears Falling của Giao Chỉ thì đang dự thảo. Cũng mới chỉ là một ý kiến mà thôi. Chỉ sợ rằng để lâu quá thời gian sẽ làm cho nước mắt đã khô hết cả mất rồi. Nhưng dù lâu hay mau, câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi sẽ rất xứng đáng để quay thành phim. Và hàng triệu giọt nước mắt sẽ chan hòa rạp hát. Vì vậy chúng tôi xin kể lại chuyện này nhân ngày 30 tháng 4-2006, ba mươi mốt năm sau.
Giao Chỉ - San Jose 2006
Xin liên lạc với chúng tôi tại địa chỉ IRCC, Inc. 420 Park Ave., San Jose, CA 95110.
Tel.: (408) 971-7878. Fax: (408) 971-7882. Email:
amy@irccsj.com
Web-site: www.vietskyline.com or www.irccsj.com
-------------------------------
http://www.journeyfromthefall.com/Theaters.aspx
Journey from the Fall with Interview http://www.youtube.com/watch?v=_FvUVUU_lN8
Ngàn giọt lệ rơi - DangMy Dung
-------------------------------
An interview with director Ham Tran
http://enderminh.com/blog/archive/2006/01/13/1161.aspx
Q: I’ve been to the sold-out screening, and people loved it, and the community is asking for more. What can they do to help you to get the movie out?
A: That’s a question I am sort of examining myself. How the community can help is actually not necessarily towards this film, but making their consumer identity known. What do I mean by that? It means going out and supporting Vietnamese films whenever they get released. It’s almost as if it’s a social responsibility. If there is a Vietnamese film out there, we need to go to the movie theater, we buy the movie tickets and don’t wait for the DVDs to come out in order to go see the film. We generate the box office dollars for the film.
It happened that way for the black community with Spike Lee’s film, when he did Do the Right Thing. Because before then, there wasn’t that big of a black community that went up to pay dollars to see a black film, and I think what we need to do right now is to pay dollars to see a Vietnamese film. That’s the only way that we can get the industry and the studios to realize that ‘hey, you know what? There is a market out there!’
The boat people experience
Q: With Journey from the Fall wrapping up and hopefully coming to the theaters some time this year, what do you hope the movie will accomplish? How do you measure success besides the number of ticket sales?
A: I think the ultimate goal is this. Of course, at least to make enough money to pay back the people that financed the film. Far from that, what’s more gratifying for me is the feeling that it opens up dialogue. Recently, I went up to Oakland to visit my grandfather and showed the film for him and my aunt, and they were all boat people. While the film was playing, they started talking. Most people would get annoyed, but then for me it was this incredible feeling of gratification, because they started talking about their boat escape. She is like ‘oh my God, this is what happened to us, and I had to do this and then I had to come back to get your grandfather and this and that.’ So, here I am, supposedly screening my film, but getting a lesson in my family history instead. I think the most important thing is to open up a dialogue, so that people begin to understand their own family histories.
One of our investors’ dad was in prison for ten years. So we sit down with him for two hours and interviewed him. He told us a lot of his stories about his education camp. My producer must have cried 400 times during the audition process, and at the end we asked how his family reacted to this, and he said that he has never told anyone these stories. So even my executive producers—he doesn’t even know his father’s story about what happened in re-education camp. It’s because of the need to silence up and protect the kids form the ugliness from the war. It’s a personal kind of shame having gone through that kind of experience. I think, if anything, we need to talk about them. We need to acknowledge what happened within our own families. In that way, we can move on.
I know that my father is still traumatized by the war. I know it in a way they fear the communist or are very suspicious of the communist, and they have a reason to be because they went through that first-hand. But we don’t know that, so we interpret their experience and their point of view as being paranoid and whatever, and we shut ourselves off to that. So I think as the 1.5 and 2.0 generation, we need to know these stories and know ourselves so that we can start the healing process for our parents.
Giao Chỉ
San Jose 2006
Lời nói đầu: Sau 30 năm cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam đã có nhiều hoàn cảnh éo le trong cuộc sống. Cuộc binh đao giữa hai miền Nam Bắc, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đưa đến cảnh gia đình chia cắt. Câu chuyện được ghi lại lần này là một nhà chia đôi ngả. Cha và con trai theo miền Bắc. Mẹ và 5 con theo miền Nam. Câu chuyện thật và đầy đủ tình tiết để dựng nên một cuốn phim làm di sản cho đời sau.
Phim ảnh Hoa Kỳ thường hay phỏng theo các cuốn tiểu thuyết hoặc ký sự dựa theo chuyện có thật đã xảy ra.
Nếu người Việt chúng ta làm một cuốn phim tại hải ngoại để có thị trường phải là phim nói Anh ngữ, có cái vai Mỹ ố Việt, tình tiết éo le, hấp dẫn, pha chút màu sắc điệp viên với các giây phút lo sợ kịch tính. Đồng thời có những lúc vai chính phải ray rứt nội tâm. Màn ảnh chiếu gần, diễn tả bằng nét mặt.
Sự lựa chọn giữa lý tưởng và bổn phận của các vai chính làm cho chuyện phim đóng mở, lôi cuốn khán giả. Nội dung cần có cơ hội để lấy ngoại cảnh từ Việt Nam, Nhật Bản, Hạ Uy Di, Hoa kỳ và Âu châu.
Vai chính đi từ những phân cảnh của gia đình Việt Nam trong chiến tranh đến các buổi tiếp tân của ngoại giao đoàn tại các quốc gia Tây phương. Từ các phòng ăn tráng lệ tại các câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ cho đến các chiến khu ở rừng già Nam Bộ. Từ văn phòng của bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam đến cơ sở tình báo của Hải quân trong Ngũ Giác Đài. Một chuyện phim như thế mà phỏng theo một câu chuyện hồi ký có thực thì vô cùng lý thú. Có thể tìm thấy không? Trên thực tế chuyện này đã xảy ra.
Chúng ta có thể tìm được câu chuyện tình tiết như vậy với nội dung bao gồm cuộc chiến Quốc Cộng giữa Việt Nam với Việt Nam. Giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Câu chuyện gián điệp thực sự xảy ra đã được kể trong cuốn hồi ký của một phụ nữ. Người đàn bà viết cuốn sách này tên là Đặng Mỹ Dung và cuốn sách này tựa đề là Ngàn Giọt Lệ Rơi. Nguyên tác Anh ngữ là A Thousand Tears Falling. Bà Yung Krall sáng tác theo thể tự truyện dựa vào cuộc đời của cha mẹ rồi đến chính cuộc đời của tác giả. Tất cả mọi danh tính đều giữ nguyên như là một sử liệu.
Dựa theo tác phẩm này, chúng tôi viết bản phác họa cho một cuốn phim tương lai của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Đây là phim truyện về một người chủ gia đình theo kháng chiến rồi đi tập kết 54 trở thành nhân viên cao cấp trong chính phủ cộng sản. Người vợ ở lại miền Nam trong vùng quốc gia rồi di tản qua Hoa Kỳ. Bà đã từ chối không về sống với chồng ở Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, con cái mỗi người theo một ngả.
Tiếp theo cuộc chiến Quốc Cộng tiếp tục bàn giao cho thế hệ thứ hai. Tác giả là con gái trong gia đình đã thành hôn với một sĩ quan hải quân Mỹ. Trong hoàn cảnh éo le, cô gái đã trở thành gián điệp nhị trùng. Một bên là cha ruột, một bên là chồng. Đứng giữa hai phe thù nghịch nhưng tác giả thực sự làm việc cho phía Hoa Kỳ. Đã góp phần phá vỡ âm mưu của Hà Nội cài người vào Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Đốn.
Chuyện thật đã xảy ra tại Mỹ vào cuối thập niên 70.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phe quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ thường bị phía cộng sản cài người nằm thật sâu vào các cơ quan của ta nhưng phe ta chưa hề có được những đòn gián điệp đáng kể lừa được đối phương.
Câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi là một biệt lệ đặc biệt cần được biết đến, cần được nhắc lại và cần được đóng thành phim.
Cảm khích với nội dung của tác phẩm, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị sau đây là câu chuyện về một cuốn phim tương lai, nhân dịp 31 năm sau kể từ tháng 4-1975.
Phác Họa Chuyện Phim "Ngàn Giọt Lệ Rơi"
"A thousand Tears Falling" bắt đầu từ ngoại cảnh tại Nhật Bản. Thời gian lúc đó là tháng 6-1975, không gian là tại phòng tiếp tân của đại khách sạn Nhật Bản tại Đông Kinh. Tại đây, một hội nghị quốc tế với các nước Đông Nam Á đang diễn ra. Ông Đặng Văn Minh là trưởng phái đoàn của nước cộng sản Việt Nam vừa chiến thắng Sài Gòn 2 tháng trước, đến dự hội nghị với niềm tự hào và được sự lưu ý của báo chí thế giới.
Tuy nhiên, cũng vào chiều hôm đó tại Đông Kinh, người cán bộ cao cấp của phe cộng sản gặp lại con gái sau 23 năm xa cách.
Từ hình ảnh trong đại sảnh của khách sạn quốc tế tại Tokyo, phía trước treo cờ các nước dự hội nghị có cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh vị trưởng phái đoàn rạng rỡ tươi cười mở đầu cuốn phim để tiếp đến hình ảnh chiến khu với cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Ông Minh sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, đi theo Kháng Chiến và trở thành nhân viên cao cấp của Mặt Trận. Năm 1954, ông dẫn con trai lớn là Đặng Văn Khôi ra Bắc. Vợ ông Minh là bà Trần Thị Phàm và 5 con nhỏ ở lại miền Nam. Khi chia tay hẹn 2 năm trở lại nhưng thật sự phải hơn 20 năm sau người cộng sản mới vào được Sài Gòn thì lúc đó đã biết bao nhiêu vật đổi sao rời.
Người con trưởng theo bố ra Bắc đã trở thành sĩ quan ưu tú của quân đội nhân dân được gửi đi Nga học về hỏa tiễn phòng không năm 1968.
Đến năm 1975, ông Minh trong khi vẫn một lòng trung thành với chế độ và trở nên cán bộ cao cấp ngành ngoại giao thì người con trưởng Đặng Văn Khôi có thái độ chống chiến tranh nên đã bị sa thải khỏi quân đội miền Bắc.
Tại miền Nam, người con trai thứ của ông bà là Đặng Hải Vân, lúc ông tập kết chỉ có 5 tuổi sau này đã trở thành phi công của Không Quân Cộng Hòa. Nhưng không may Hải Vân đã bị thiệt mạng trong một phi vụ bay huấn luyện tại Hoa Kỳ lúc 21 tuổi. Chị Đặng Mỹ Dung là con thứ tư của ông bà đã thành hôn với đại úy phi công của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn và năm 75 gia đình sống tại Hawaii.
Cuộc sống thơ mộng và bình yên của ông Krall và bà Mỹ Dung hoàn toàn thay đổi từ tháng 4-1975.
Cũng vào tháng 4-1975, lúc đó cha của bà Dung là ông Minh đang làm đại sứ cộng sản Hà Nội tại Nga Sô, mẹ của bà và đứa em út thì kẹt ở Sài Gòn.
Với bao năm xa cách, với quan niệm về cuộc sống khác biệt, bà Phàm vợ ông Minh không hề có ý muốn ở lại Sài Gòn để chờ đoàn tụ với chồng. Đặng Mỹ Dung liền yêu cầu thiếu tá Krall tìm cách về Sài Gòn đón gia đình bà qua Mỹ.
Khi ông Krall qua Sài Gòn đã lâu mà chưa có tin tức gì. Tại Hawaii, bà Đặng Mỹ Dung lo sợ đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại cầu cứu với đề đốc Gaylor, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng.
Lời nói chỉ vắn tắt báo cáo chuyện chồng bà về Sài Gòn để lo cứu gia đình sao chưa thấy qua, nhưng bà nói thêm một tin tức động trời bà là con gái của đại sứ cộng sản Việt Nam tại Mạc Tư Khoa.
Lập tức guồng máy quân báo của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển động và cả FBI lẫn CIA nhập cuộc.
Hệ thống tình báo Mỹ ghi nhận ngay đây là một đầu mối vô cùng quan trọng mà tại sao lâu nay không ai biết. Ngay cả lúc hồ sơ thành hôn của vị sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không ai lưu ý đến mối liên hệ huyết tộc quan trọng của cô dâu nước Mỹ có đầu mối Hà Nội. Họ cứ tưởng đây là cô gái thuần túy Sài Gòn.
Tiếp theo khi chuyến bay chở mẹ và em gái út của Đặng Mỹ Dung ra khỏi Việt Nam do CIA Sài Gòn trực tiếp sắp đặt thì một khế ước bất thành văn đã bắt đầu. Mỹ Dung nợ khối tình báo Mỹ một yêu cầu. Cuộc đời điệp viên khởi sự.
Khi bà Minh đã yên ổn tại Hoa Kỳ thì hơn 60 ngày sau Mỹ Dung dắt con nhỏ qua Nhật Bản thăm thân phụ đã hơn 20 năm xa cách. Guồng máy tình báo của thế giới tự do mở chiến dịch để Con Chim Xanh với Ngàn Giọt Lệ lên đường công tác. Bây giờ xin mời khán giả trở lại Đông Kinh của tháng 6-1976.
Cánh cửa phòng họp riêng của đại sảnh Tokyo hé mở, một cán bộ ngoại giao của Hà Nội bước vào trình với thủ trưởng Đặng Quang Minh: "Thưa đồng chí thủ trưởng, bà Việt kiều ở Mỹ và đứa con lai đã có hẹn xin vào gặp."
Ông Minh vẫn còn đang xem hồ sơ hội nghị, nói mà không nhìn lên: "Đây là đại diện Hội Việt Kiều Yêu Nước đến để động viên và mừng đất nước thống nhất. Đồng chí mời vào đi."
Đặng Lệ Dung bước vào cùng con gái nhỏ nép một bên. Hơn 20 năm qua, lúc thân phụ ra đi, cô là đứa bé con. Giờ đây, đứa cháu ngoại lai Mỹ xinh đẹp của ông mắt mở to nhìn người đàn ông xa lạ mà e ngại.
Cuộc gặp gỡ riêng tư nhưng hết sức khách sáo. Cả cha con đều phải đóng kịch dù rằng trong lòng như lửa đốt.
Trước khi chia tay, ông Minh nói nhỏ với con gái là sẽ thu xếp để gặp lại người vợ cũ là bà Phàm đã hiện di tản qua Hoa Kỳ.
Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên vào tháng 6-1975, cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị, tình báo và ngoại giao giữa hai cha con bắt đầu. Một bên là Việt Nam cộng sản đã thống nhất và một bên là guồng máy tình báo Hoa Kỳ. Cả hai bên đều tìm cách mua chuộc lẫn nhau. Cuốn phim Ngàn Giọt Lệ Rơi thực sự sẽ có cả hàng trăm phân cảnh hết sức độc đáo để dàn dựng.
Thủ trưởng Đặng Quang Minh về báo cáo lên bộ chính trị và được đồng ý cho phép qua Paris gặp lại vợ con. Ông dự trù sẽ thuyết phục để đưa vợ con trở về Hà Nội dưới hình thức chiến thắng ngoại giao sau khi tuyên bố là gia đình ông ở Sài Gòn đã bị Hoa Kỳ áp đảo bắt phải di tản. Hà Nội chắc chắn một lần nữa sẽ đạt được một thành tích đánh bại Hoa Kỳ trên diễn đàn dư luận quốc tế.
Phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Đốn đã cho phép CIA giúp đỡ hai mẹ con bà Minh qua Pháp để bắt nhịp cầu làm việc trực tiếp với tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris. Tình báo Mỹ chấp nhận nhập cuộc.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính trị giữa cộng sản và Hoa Kỳ đã trở thành một mối xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Đặng, vượt ra khỏi tầm tay của những thế lực đằng sau từ cả hai bên.
Ông Minh hết lòng thuyết phục bà vợ tao khang trở về với một đất nước nay đã thanh bình, độc lập, thống nhất và hoàn toàn chiến thắng. Ông thề thốt lấy cả cuộc đời ra để bảo đảm cho sự an toàn của bà và người con út cùng đi với bà.
Nhưng bà Minh vẫn còn dè đặt và sau cùng quyết định ở lại Hoa Kỳ. Một quyết định sáng suốt mà ngày nay bà vẫn cho là hết sức may mắn.
Trong thời gian đó, phe cộng sản hết lòng chiều chuộng móc nối với Đặng Mỹ Dung với hy vọng cô sẽ thuyết phục bà mẹ. Và hơn nữa, dù bà Minh chưa muốn về Hà Nội nhưng Mỹ Dung với ảnh hưởng sẵn có trong quân đội Mỹ, có thể dễ dàng trở thành một nguồn tin đáng giá và tốt nhất là chuyển hộ các tài liệu trên đường hàng không từ Hoa Thịnh Đốn qua Paris. Con Chim Xanh của Ngàn Giọt Lệ Rơi luôn luôn sẵn sàng hợp tác như là người cảm tình với phe chiến thắng mà thân phụ của cô cũng góp phần.
Dần dân Mỹ Dung gián tiếp trở thành một phụ nữ Việt Nam yêu nước kết hôn với người Mỹ những vẫn hồn nhiên đóng góp công tác cho chính phủ Hà Nội và các tổ chức thân Cộng. Cũng vào thời điểm đó, sinh viên thân cộng Trương Đình Hùng là con của luật sư Trương Đình Dzu đang hoạt động cho tình báo cộng sản. Hùng du học Mỹ trước 1975 và tiếp tục ở lại Hoa Kỳ móc nối lấy tin tức từ Bộ Ngoại Giao. Hùng rất tin tưởng ở sự thân hữu chặt chẽ của Mỹ Dung với Hà Nội và tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Pháp.
Ronald Humphrey là nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phép đọc tài liệu tối mật.
Lúc còn ở Việt Nam, Humphrey lấy cháu gái Võ Thị Định, một nữ cán bộ quân sự của Giải Phóng Miền Nam. Hà Nội đưa điều kiện nếu Ronald muốn cho phép đem vợ qua Mỹ phải lấy hồ sơ mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ trao cho Trương Đình Hùng.
Trương Đình Hùng nhờ Đặng Mỹ Dung chuyển tài liệu cho cộng sản qua tòa đại sứ Việt Nam tại Paris đưa tài liệu cho Việt cộng. Tài liệu Humphrey đưa ra qua tay Hùng đến Mỹ Dung thì CIA đổi thành tài liệu giả để chuyển qua Pháp. Khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định truy tố Trương Đình Hùng và Humphrey thì cần có Mỹ Dung ra làm nhân chứng. Nếu như thế là cuộc đời gián điệp sẽ chấm dứt và đồng thời bà chấp nhận mọi rủi ro thách đố về sau.
Đây là một quyết định khó khăn đối với một phụ nữ. Lần đưa mẹ ra khỏi Việt Nam, Mỹ Dung đã phải trả giá bằng cách bước vào con đường chông gai của nữ điệp viên. Lần này lại thêm một thử thách mới.
Sau cùng Mỹ Dung yêu cầu chính phủ Mỹ phải cam kết đưa cha và anh bà được vào Mỹ, trước khi phiên tòa bắt đầu.
Việc này sẽ được thu xếp trước khi vụ gián điệp tại Bộ Ngoại Giao được chuyển qua tòa án. Hồ sơ cam kết mật đưa lên tổng thống Carter xin chấp thuận. Guồng máy tình báo Hoa Kỳ lại mở chiến dịch mới.
Bà Mỹ Dung viết thư cho Lê Duẩn, tổng thư ký và Nguyễn Duy Trinh bộ trưởng ngoại giao Hà Nội xin cho cha là Đăng Quang Minh qua London gặp gia đình vợ con vì bà Minh bị bệnh nan y có thể chết.
Giáng Sinh năm 1977, Hà Nội chấp thuận cho ông Minh xuất ngoại. Trong hai tuần lễ bên cha, cả hai chị em bà Mỹ Dung thuyết phục ông Minh đi Mỹ nhưng không thành công.
Cuộc tranh luận, phân giải trong gia tộc với nghĩa phu thê, và tình cha con của một gia đình Quốc Cộng đã kéo dài suốt mùa Giáng Sinh tại thủ đô sương mù London năm 1977. Ông Minh đã dành cả cuộc đời đi theo con đường của ông, đêm nằm trằn trọc cùng phòng với đứa cháu ngoại thân yêu. Bà Minh suốt thời gian nghe con gái và chồng tranh luận mệt nhoài nên đã nói những lời sau cùng trước khi chia tay đôi ngả. Bà yêu cầu chồng và các con từ nay chấm dứt tranh luận, cãi cọ qua lại về chính trị, về chủ thuyết, và tương lai. Hãy ngồi với nhau lần cuối trong tình huyết tộc rồi đường ai nấy đi.
Cuộc chia tay của hai phe đấu tranh chiến tranh chính trị trong một gia đình bây giờ chỉ còn toàn nước mắt của "Ngàn giọt lệ rơi."
Sau cuộc họp mặt Giáng Sinh lịch sử 1977 của gia đình họ Đặng, Hoa Kỳ quyết định đưa vụ án ra ánh sáng. Chính phủ Mỹ truy tố Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey mỗi người bị tù 15 năm. Cả hệ thống ngoại giao của cộng sản Hà Nội bị lung lay, rung động từ đại sứ Đinh Bá Thi tại Liên Hiệp Quốc cho đến đại sứ Đặng Văn Sung tại Paris.
Câu chuyện gián điệp nữ Đặng Mỹ Dung được viết lại thành ký sự bằng Anh ngữ nhưng CIA đã yêu cầu bỏ đi gần 200 trang trước khi in. Một ngày nào đó bản Việt ngữ sẽ phát hành đầy đủ hơn để chúng ta biết rõ về một gia đình Quốc Cộng đã chia ly, đoàn tụ và vĩnh biệt ra sao.
Về sau ông Đặng Quang Minh sống độc thân tại Hà Nội, thỉnh thoảng đi thăm mộ con trai là thiếu úy Đặng Hải Vân của KQVNCH tại miền Nam. Ông mất năm 1986, hưởng thọ được 77 tuổi.
Đặng Văn Khôi, người con trai lớn theo ông tập kết ra Bắc có đến chào cha trước khi vượt biên, hiện sống ở miền Đông Hoa Kỳ. Từ một sĩ quan của đơn vị phòng không quân đội nhân dân đã du học bên Nga, nay ông trở thành người tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông sống độc thân, năm nay 67 tuổi.
Bà Minh sống với vợ chồng Đặng Mỹ Dung đã về hưu. Khi được tin chồng chết, bà không muốn về chịu tang dưới nghi lễ của đảng cộng sản. Một lòng kiên quyết, bà muốn để cho chồng đi trọn con đường ông lựa chọn.
Ông chết trong lòng đất quê hương, nơi có mộ phần của con trai ông là sĩ quan miền Nam. Bà Minh qua đời khi nước Mỹ bước vào thế kỷ thứ 21. Có thể ông bà đã cùng đứa con trai đoàn tụ ở một nơi không còn khác biệt về ý thức hệ.
Cuốn sách A Thousand Tears Falling hiện được một số giáo sư Hoa Kỳ dùng để dạy cho các trường trung học. Còn cuốn phim A Thousand Tears Falling của Giao Chỉ thì đang dự thảo. Cũng mới chỉ là một ý kiến mà thôi. Chỉ sợ rằng để lâu quá thời gian sẽ làm cho nước mắt đã khô hết cả mất rồi. Nhưng dù lâu hay mau, câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi sẽ rất xứng đáng để quay thành phim. Và hàng triệu giọt nước mắt sẽ chan hòa rạp hát. Vì vậy chúng tôi xin kể lại chuyện này nhân ngày 30 tháng 4-2006, ba mươi mốt năm sau.
Giao Chỉ - San Jose 2006
Xin liên lạc với chúng tôi tại địa chỉ IRCC, Inc. 420 Park Ave., San Jose, CA 95110.
Tel.: (408) 971-7878. Fax: (408) 971-7882. Email:
amy@irccsj.com
Web-site: www.vietskyline.com or www.irccsj.com
-------------------------------
http://www.journeyfromthefall.com/Theaters.aspx
Journey from the Fall with Interview http://www.youtube.com/watch?v=_FvUVUU_lN8
Ngàn giọt lệ rơi - DangMy Dung
-------------------------------
An interview with director Ham Tran
http://enderminh.com/blog/archive/2006/01/13/1161.aspx
Q: I’ve been to the sold-out screening, and people loved it, and the community is asking for more. What can they do to help you to get the movie out?
A: That’s a question I am sort of examining myself. How the community can help is actually not necessarily towards this film, but making their consumer identity known. What do I mean by that? It means going out and supporting Vietnamese films whenever they get released. It’s almost as if it’s a social responsibility. If there is a Vietnamese film out there, we need to go to the movie theater, we buy the movie tickets and don’t wait for the DVDs to come out in order to go see the film. We generate the box office dollars for the film.
It happened that way for the black community with Spike Lee’s film, when he did Do the Right Thing. Because before then, there wasn’t that big of a black community that went up to pay dollars to see a black film, and I think what we need to do right now is to pay dollars to see a Vietnamese film. That’s the only way that we can get the industry and the studios to realize that ‘hey, you know what? There is a market out there!’
The boat people experience
Q: With Journey from the Fall wrapping up and hopefully coming to the theaters some time this year, what do you hope the movie will accomplish? How do you measure success besides the number of ticket sales?
A: I think the ultimate goal is this. Of course, at least to make enough money to pay back the people that financed the film. Far from that, what’s more gratifying for me is the feeling that it opens up dialogue. Recently, I went up to Oakland to visit my grandfather and showed the film for him and my aunt, and they were all boat people. While the film was playing, they started talking. Most people would get annoyed, but then for me it was this incredible feeling of gratification, because they started talking about their boat escape. She is like ‘oh my God, this is what happened to us, and I had to do this and then I had to come back to get your grandfather and this and that.’ So, here I am, supposedly screening my film, but getting a lesson in my family history instead. I think the most important thing is to open up a dialogue, so that people begin to understand their own family histories.
One of our investors’ dad was in prison for ten years. So we sit down with him for two hours and interviewed him. He told us a lot of his stories about his education camp. My producer must have cried 400 times during the audition process, and at the end we asked how his family reacted to this, and he said that he has never told anyone these stories. So even my executive producers—he doesn’t even know his father’s story about what happened in re-education camp. It’s because of the need to silence up and protect the kids form the ugliness from the war. It’s a personal kind of shame having gone through that kind of experience. I think, if anything, we need to talk about them. We need to acknowledge what happened within our own families. In that way, we can move on.
I know that my father is still traumatized by the war. I know it in a way they fear the communist or are very suspicious of the communist, and they have a reason to be because they went through that first-hand. But we don’t know that, so we interpret their experience and their point of view as being paranoid and whatever, and we shut ourselves off to that. So I think as the 1.5 and 2.0 generation, we need to know these stories and know ourselves so that we can start the healing process for our parents.
Inscription à :
Articles (Atom)