Thứ Tư, ngày 23 tháng 5 năm 2007
Quyền lợi là trên hết
--------------------------------------------------------------------------------
• Tâm Việt (Virginia, 20.5.2007)
Trong quan hệ giữa các nước thì nước nào cũng đặt quyền lợi của nước mình lên hàng ưu tiên. Nếu họ khôn ngoan và biết nhìn xa, nếu họ biết tránh gây tổn thất nặng nề cho đồng minh của họ, thì việc họ bảo vệ quyền lợi của họ là chuyện bình thường, chẳng ai thắc mắc. Cho nên quan hệ đồng minh chỉ tốt đẹp khi mọi sự đều êm ả. Gặp lúc biển động, thì còn cố gắng nói chuyện với nhau, mưu tìm với nhau giải pháp ổn thỏa. Nhưng gặp lúc quyền lợi chiến lược quá lớn, thì người ta có thể trở mặt, làm cho đồng minh cay đắng trăm bề. Thậm chí người ta có thể lạnh lùng không tình không nghĩa, thay thế quan hệ đồng minh cũ bằng quan hệ đồng minh mới, lợi hơn.
Đôi khi vì đánh giá sai cái lợi của mình, đồng minh lớn đã có những quyết định đơn phương sai lạc, với những hậu quả tai hại lâu dài. Chẳng hạn trong Đệ Nhị Thế Chiến, khi nước Đức trong quá trình thua trận, phía thủ tướng Anh Quốc, Churchill và tướng Montgomery đề nghị liên quân Tây Phương xử dụng liên lộ quân thứ 21, với khoảng 40 sư đoàn đầy đủ quân số và hỏa lực làm mũi dùi, yểm trợ nhau tiến nhanh trên vùng đồng bằng phía Bắc của Đức để đánh chiếm Bá Linh trước khi Hồng Quân Nga thực hiện được điều đó. Ai cũng biết quân Đức ở mặt trận phía Tây không còn tinh thần chiến đấu cao, họ thuộc loại lính già, suy yếu vì thương tích, hoặc lính trẻ chưa có kinh nghiệm chiến trường, quân số các đơn vị rất thấp, do đó liên quân Anh Mỹ dùng mọi phương tiện đánh những mũi dùi dũng mãnh vào Bá Linh thì có thể kết thúc chiến tranh sớm hơn và tránh những thua thiệt sau này của một vị trí bị Hồng Quân Nga bao vây. Eisenhower từ chối, vì cho đó là một cuộc hành quân mang tính chính trị, và ông ta không muốn lính Mỹ phải chịu hy sinh cho một cuộc hành quân mang tính chính trị. Được tham khảo, Ngũ Giác Đài cũng lờ luôn, không trả lời.
Trong khi các tướng lãnh gốc hành chánh của Mỹ tà tà với những cuộc hành quân tảo thanh bình định khắp nơi trên lãnh thổ phía Tây nước Đức, thì các tướng lãnh Nga, huy động 6 Liên Lộ Quân với gần 2.000.000 quân được trang bị hỏa lực phi pháo chiến xa vượt trội, chĩa những mũi dùi tiến về hướng Tây, với mục đích đánh chiếm Bá Linh. Mặc dù ở mặt trận phía Đông quân Đức cố gắng chống trả mãnh liệt để làm chậm đà tiến của Hồng Quân, nhưng các phòng tuyến Đức thay nhau sụp đổ. Và cuối cùng quân Liên Sô đã chiếm đóng Bá Linh, và còn vượt khỏi Bá Linh tiến xa hơn về phía Tây. Quy chế tứ cường của Bá Linh sau này nằm sâu trong nội địa của Đông Âu do Liên Sô chiếm đóng. Hậu quả là đồng minh phải gánh chịu là Bá Linh bị phong tỏa trong các năm 1948-1949, là những căng thẳng thường xuyên, với tâm lý bị bao vây và có thể bị hủy diệt bất cứ lúc nào.
Ngày 15-08-1961 Đông Đức bắt đầu cho xây bức tường Bá Linh, vi phạm trắng trợn quy chế Tứ Cường, nhưng đồng minh và đặc biệt Hoa Kỳ chẳng dám phản đối mạnh mẽ, mà chỉ ra lệnh một tiểu đoàn bộ binh (1.500 người) không được trang bị hỏa lực nặng, đi từ thành phố Mannheim (xa khoảng 600 cây số) vào Bá Linh theo ngã thành phố Halmstedt vào ngày 18-08-1961. Tại sao lại phải và chỉ gởi 1.500 bộ binh từ xa vào Bá Linh, và chỉ đến vào ngày 20-08-1961, tức là một tuần sau khi Đông Đức bắt đầu xây cất bức tường, mà không dám phản ứng ngay bằng cách gởi một đoàn chiến xa và thiết giáp với hỏa lực đầy đủ từ thành phố Hannover gần đó để tiến vào Bá Linh. Rõ ràng là Hoa Kỳ muốn thương thuyết với Nga để tránh mất mặt cho nhau. Không phải người dân Miền Nam Việt Nam sau này mới than thở rằng bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi, mà vào tháng 8 năm 1961 chính dân Bá Linh đã viết lên các biểu ngữ 'Tây Phương đã phản bội chúng ta', 'Các lực lượng đồng minh ở đâu?' ....
Chuyện ông Kennedy đến Bá Linh năm 1962 tuyên bố 'Tôi là người dân Bá Linh' ('Ich bin ein Berliner') chỉ có tác dụng huê dạng mà thôi. Chính quyền Tây Đức thừa biết là Hoa Kỳ sẽ không bao giờ dám đụng đầu với Liên Sô để bảo vệ Bá Linh. Nhận thức được rằng không ai lo cho mình bằng chính mình, do đó chính quyền Tây Đức đã thay đổi đường lối áp dụng chính sách 'Ostpolitik' ('Chính trị hướng Đông') để hòa hoãn và cải biến xã hội Đông Âu. Bức tường đã tồn tại cho đến năm 1989 và do chính nhân dân Đông Đức và Tây Đức phá sập. Cái nhìn thiển cận của nhóm lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ trước đây về quyền lợi ngắn hạn của họ đã mang lại rất nhiều thiệt hại cho Tây Âu . Nói cho cùng chỉ có tướng Patton, tướng MacArthur của Hoa Kỳ là có tầm nhìn chiến lược, nhưng lại bị chèn ép. Còn các tướng lãnh cao cấp khác đều thuộc lại văn phòng, Marshall, Bradley, Eisenhower, v.v., thiếu tầm nhìn chiến lược mà lại nắm quyền tư lệnh.
Trường hợp thứ hai xảy ra năm 1956, khi ông Nasser quốc hữu hoá kênh đào Suez, vào thời đó là sở hữu của công ty Suez của Anh Quốc và Pháp. Sau mấy tháng chuẩn bị, Anh Pháp và Do Thái hợp tác với nhau về không chiến và bộ chiến, còn hải quân Anh Pháp thì tiến về phía Đông Địa Trung Hải để đánh phá và đổ bộ lên cảng Suez, Port Said đồng thời yểm trợ cho bộ binh. Ở đây không bàn đến đường lối của Pháp và Anh đúng hay sai, mà chỉ nhắc đến quan hệ đồng minh Tây Phương Anh-Pháp-Hoa Kỳ. Hạm đội 6 của Hoa Kỳ ở Địa Trung Hải đã làm mọi cách, gây mọi trở ngại cho trục tiến quân của hạm đội Anh Pháp, đôi khi suýt tông vào nhau. Pháp Anh cay lắm nhưng không cay bằng những biện pháp đánh hạ đồng Sterling của Anh, và tảng lờ bởi đe dọa của Khrouchtchev ném bom nguyên tử xuống Paris. DeGaulle đã học được bài học 'Không ai chịu hy sinh để bảo vệ mình bằng chính mình'. Kể từ đó, bằng mọi giá, nước Pháp cố gắng xây dựng lực lượng nguyên tử gián chỉ với đầy đủ các thành phần hải, lục, không quân chiến lược, và lực lượng tàu ngầm nguyên tử đại dương. Chính Hoa Kỳ không muốn nước Pháp xây dựng lực lượng chiến lược đó, nhưng không thể ngăn cản ý chí của Pháp.
Khi phải đối đầu để bảo vệ đồng minh thì Hoa Kỳ tìm cách thoái thác, nhưng khi đụng đến sự sống còn của mình thì Hoa Kỳ quyết tâm làm đến cùng. Đó là trường hợp Cuba với các hỏa tiễn chiến lược của Liên Sô đe dọa nền an ninh của Mỹ. Có điều trong sự đổi chác giữa Nga và Hoa Kỳ, thì kẻ bị hy sinh là những người Cuba quốc gia lưu vong. Hoa Kỳ đã hy sinh họ tại Vịnh Con Heo một cách tàn nhẫn. Cái tên của bãi đổ bộ ở Cuba đã nói lên đường lối của Hoa Kỳ. Hy sinh bạn, dùng bạn làm việc tế thần, miễn là được việc cho mình là đường lối cố hữu của Hoa Kỳ.
Tình Nghĩa Là Thứ Yếu
Đối với các nước nhỏ, thì vì quyền lợi của mình, Hoa Kỳ lại càng đối xử không tình không nghĩa. Trường hợp Iran dưới thời Hoàng Đế Pahlavi, một vị Hoàng Đế đã từng được Tây Phương ủng hộ hết mình, thế mà khi mất ngôi, đi lưu vong, bị bệnh xin chiếu khán vào Hoa Kỳ chữa bệnh, đã bị chính quyền Hoa Kỳ lạnh lùng, tàn nhẫn từ chối. Cái tội của ông vua này là đã muốn hiện đại hóa xứ sở, mà nếu thành công thì có thể trở thành một quốc gia giàu mạnh trong vùng, đều mà Hoa Kỳ, Do Thái và các nước phong kiến trong vùng không muốn. Người ta thiên về giải pháp ủng hộ các tu sĩ Hồi Giáo để hạ bệ nhà vua, bởi vì người ta nghĩ rằng các vị tu sĩ này sẽ đưa nước Iran trở về thời đại phong kiến. Họ không ngờ 'gậy ông đập lưng ông', chủ nghĩa dân tộc quyền lẫn vào đức tin tôn giáo, đã trở thành một sức mạnh đáng sợ, khó kềm hãm. Các tư tưởng tiến bộ hiện đại hiện hữu trong nếp sống văn minh ghi nhận được dưới thời đế chế đã bị loại trừ, và không thể tác động vào cuộc sống xã hội. Hoa Kỳ tưởng rằng mình khôn mà hóa ra quá khờ dại với cái giá phải trả là để mất Iran. Những câu hỏi: Ai đã để mất Trung Hoa? Ai đã để mất Đông Dương? Ai đã để mất Iran? Ai đang để mất Irak? Ai đang để mất Afghanistan? .... sẽ ám ảnh lâu dài những người lãnh đạo Hoa Kỳ.
Không tình không nghĩa là đặc tính trong quan hệ của Hoa Kỳ với các đồng minh nhỏ. Họ chỉ chấp nhận những kẻ vâng dạ, làm tay sai cho họ. Họ loại trừ những người yêu nước thực sự, bởi vì những người này đặt quyền lợi của đất nước họ lên trên hết. Vì quyền lợi chiến lược của mình, Hoa Kỳ đã vào Miền Nam Việt Nam vào đầu thập niên 60, bất chấp sự không đồng ý của lãnh đạo Miền Nam. Họ còn xử dụng bạo lực để dùng tay sai loại trừ những nhà lãnh đạo yêu nước. Đến khi cũng vì quyền lợi chiến lược của Hoa Kỳ, họ bất chấp những lời hứa hẹn (Kissinger), những lời cam kết trên giấy trắng mực đen (Nixon), Hoa Kỳ đã bỏ rơi lạnh lùng Miền Nam, mặc cho khổ đau, tủi nhục đè nặng lên 25 triệu dân Miền Nam (1975).
Trường hợp Hoa Kỳ bỏ rơi Miền Nam bắt tay với Cộng Sản Hà Nội là trường hợp điển hình mà người Việt Nam nào cũng nhìn thấy. Mới đây khi Hoa Kỳ muốn thiết lập quan hệ chiến lược với Hà Nội, họ đã không ngần ngại đổi trắng thay đen, thay đổi lập trường, biến chế độ cộng sản Hà Nội thành một chế độ biết tôn trọng tự do tôn giáo. Họ không ngần ngại bỏ rơi các tổ chức hội đoàn đấu tranh cho dân chủ tự do. Biết như vậy để đừng quá mơ hồ về chủ trương đường lối vị kỷ của Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp ông Lý Tống, kiều dân Mỹ, gốc Việt Nam, nghe theo lời kêu gọi của Hoa Kỳ là đấu tranh đòi dân chủ cho các nước đang bị các chế độ độc đoán thống trị, bị tù ở Thái Lan, đã mãn hạn tù, nhưng chính quyền Hoa Kỳ làm ngơ không biết đến số phận của ông ta.
Tình nghĩa Hoa Kỳ là như thế đó. Chính vì thế mà trên thế giới không mấy người có cảm tình với Hoa Kỳ. So với bà Ngọc Hạnh, chỉ là người Việt Nam tỵ nạn tại Pháp, cũng đấu tranh cho dân chủ tự do, bị cầm tù ở Mỹ, mãn hạn tù, đã được chính quyền Pháp giúp đỡ mang về Pháp sống tự do. 'Liberté, Égalité, Fraternité' câu châm ngôn của nước Pháp nhân bản ít nhất cũng còn mang một chút ý nghĩa nào đó, giữa cái thời đại không tình không nghĩa này.
Đối với các hội đoàn, đoàn thể, đảng phái Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước đừng quá tin cậy những lời hứa hẹn hão huyền của thiên hạ, đừng chịu làm thân phận của hoa hướng dương, vì sau khi dâng hiến sức mình cho thiên hạ khai thác, chỉ còn lại những thửa ruộng xấu xí, đen đỉu, ai cũng lánh xa.
Bằng mọi giá phải lấy sức mình làm chính, lấy thực lực của mình làm phương tiện đấu tranh, nếu không muốn bị bán đứng như các trường hợp đau thương vừa kể. Các tổ chức quốc tế cũng không làm gì được cho chúng ta một cách hiệu quả, bởi vì các tổ chức đó đã mất đi quá nhiều ảnh hưởng và uy tín trên bàn cờ thế giới.
Nguyên nhân chủ yếu của sự suy yếu này là vì các nước lớn tự cho mình là cái nôi dân chủ như Pháp, Ấn Độ, Hoa Kỳ ...và các nước mà họ gọi là lưu manh (états voyous) hiện nay đã có sự hợp tác với nhau để mưu lợi, cho nên người ta lơ mọi vấn đề vi phạm nhân quyền và bỏ rơi các tổ chức đấu tranh trước chủ trương đàn áp của các nhà nước lưu manh.
Ngay cả Tòa Thánh Vatican cũng không lên tiếng bênh vực những người bị đàn áp, cho nên cuộc đấu tranh cho dân chủ nhân quyền sẽ rất cô đơn và gian khổ. Biết như vậy để đừng mơ hồ, cay đắng.
(Tâm Việt, Virginia, 20.5.2007)
vvv
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire